Đại hội 13 Việt Nam: Khả năng phục hồi hay suy thoái về thể chế?

Nguyễn Khắc Giang

Khánh An dịch

Đại hội 13 có thể đánh dấu một thời điểm quan trọng, đảm bảo khả năng phục hồi thể chế của ĐCSVN hoặc đánh dấu sự khởi đầu của sự suy thoái về thể chế.

VNTB – Đại hội 13 Việt Nam: Khả năng phục hồi hay suy thoái về thể chế?

Ngoài ngày – được ấn định 25 tháng 1 – không có thông tin rõ ràng nào về Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), dự kiến chọn thế hệ lãnh đạo mới cho đất nước trong 5 năm tới. Giới quan sát Việt Nam đang cân nhắc những khả năng khác nhau về việc ai sẽ kế nhiệm Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng – nhà lãnh đạo quyền lực nhất của Việt Nam kể từ khi Lê Duẩn qua đời năm 1986.

Trần Quốc Vượng, cánh tay phải của ông Trọng và là Ủy viên thường trực Ban Bí thư ĐCSVN được nhiều người coi là ứng cử viên hàng đầu , nhưng đối thủ tiềm năng của ông, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, cũng là một thách thức lớn. với thành tích mạnh mẽ trong quản lý kinh tế và cuộc chiến chống lại dịch COVID-19.

Tuy nhiên, việc đặt cược vào một ứng cử viên trong chính trường Việt Nam là một việc khó khăn, đặc biệt là vì mức độ không chắc chắn và cạnh tranh nội bộ ở Việt Nam cao hơn so với các quốc gia cộng sản khác như Trung Quốc hay Lào. Hầu hết các nhà phân tích đáng tin cậy đã sai trong kỳ Đại hội rồi vào năm 2016, khi ông Nguyễn Phú Trọng giữ được thành công ghế của mình trước Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đầy quyền lực. Có thể hiểu tại sao những người theo dõi Việt Nam lại quan tâm đến khía cạnh chuyển đổi lãnh đạo của các kỳ đại hội 5 năm; tuy nhiên, các sự kiện cung cấp nhiều thông tin chi tiết hơn là chỉ tổ chức các cuộc thi giành vị trí hàng đầu.

Trên thực tế, Đại hội 13 không phải là một sự kiện đơn lẻ, chỉ diễn ra một lần: đại hội kéo dài một tuần ở Hà Nội vào cuối tháng này là kết quả của một cuộc bầu cử đảng kéo dài cả năm ở cả bốn cấp chính quyền – xã, huyện, tỉnh, và trung ương – bầu chọn ra hơn 1.500 Đảng viên ưu tú cho Đại hội toàn quốc. ĐCSVN thường coi những cuộc bầu cử đó như những nền tảng thử nghiệm cải cách thể chế, cuối cùng sẽ được áp dụng cho cấp cao nhất (tức là bầu chức vụ Tổng Bí thư) nếu những thử nghiệm đó được coi là thành công. Theo nghĩa này, có hai sự phát triển quan trọng đáng chú ý.

Đầu tiên, bỏ phiếu trực tiếp được thí điểm trên toàn quốc trong 11% các cuộc bầu cử cấp xã và cấp huyện. Thủ tục bầu cử tiêu chuẩn trong hệ thống cộng sản dựa trên nguyên tắc “tập trung dân chủ”, phụ thuộc vào hệ thống ủy quyền: đại hội ở cấp chính quyền cấp dưới bỏ phiếu bầu cấp ủy, sau đó cấp uỷ bỏ phiếu bầu bí thư cho cấp tương ứng.

Quy trình tương tự cũng áp dụng đối với việc Đại hội toàn quốc lựa chọn Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Tổng Bí thư. Phương pháp thông thường này đảm bảo tính ổn định nhưng dễ bị lôi kéo, vì chỉ một số ít Đảng viên có tiếng nói trong quá trình lựa chọn. Với phương pháp mới, “cơ quan tuyển chọn” được mở rộng, kéo theo sự không chắc chắn thú vị trong cạnh tranh bầu cử, điều hiếm có ở một hệ thống độc đảng như Việt Nam.

Bầu cử trực tiếp tại các đại hội đã được các nhà lý luận của Đảng thúc đẩy một thời gian, với cuộc thí điểm đầu tiên ở cấp tỉnh diễn ra ở Đà Nẵng cách đây 10 năm. Tuy nhiên, ý tưởng này đã không bao giờ được hiện thực hóa trên quy mô lớn như vậy cho đến năm ngoái. Cách tiếp cận thận trọng thông thường của ĐCSVN đối với cải cách chính trị cho thấy chúng ta có thể phải đợi thêm ít nhất một kỳ đại hội nữa (từ năm 2026 trở đi) để xem liệu nguyên tắc bỏ phiếu mới có được áp dụng ở cấp quốc gia hay không. Tuy nhiên, viễn cảnh 1.500 đại biểu bỏ phiếu để chọn lãnh đạo Đảng từ (trên danh nghĩa) hai ứng cử viên sẽ là một bước nhảy vọt cho chính trường Việt Nam, và rất đáng để chờ đợi.

Thứ hai, 43% trong số tân bí thư tỉnh thành – chiếm phần lớn nhất trong Ủy ban Trung ương – dưới 50 tuổi. Họ đại diện cho một thế hệ lớn lên trong thời đại cải cách thị trường, có xu hướng ít cứng nhắc hơn về mặt tư tưởng và cởi mở hơn với các giá trị phổ quát hơn những người bảo thủ dày dạn kinh nghiệm chiến tranh. Họ chắc chắn sẽ đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hoạch định chính sách trong nhiệm kỳ mới và những người hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sẽ trở thành ứng cử viên cho quá trình chuyển đổi lãnh đạo vào năm 2026.

Những phát triển mới này diễn ra phù hợp với quá trình thể chế hóa do ĐCSVN khởi xướng kể từ Đại hội 8 năm 1996, khi các nhà cách mạng thế hệ đầu rút lui để nhường chỗ cho đội ngũ lãnh đạo trẻ hơn và đảm bảo rằng nền dân chủ trong nội bộ đảng vẫn còn nguyên vẹn. Vào thời điểm đó, Ủy ban Trung ương đưa ra quy định yêu cầu tất cả các ủy viên Bộ Chính trị trên 65 tuổi phải nghỉ hưu để đảm bảo quá trình chuyển giao quyền lực diễn ra suôn sẻ.

Quy tắc chỉ để lại một “quyền miễn trừ đặc biệt”, thường dành cho các vị trí quan trọng nhất, mặc dù trên thực tế được áp dụng không đồng đều. Chẳng hạn, năm 2001, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu bị truất ngôi danh nghĩa vì vượt quá tuổi, trong khi việc miễn trừ cho phép Thủ tướng Phan Văn Khải, lúc đó 68 tuổi, vẫn trong Bộ Chính trị. Năm 2016, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không thể ứng cử do tuổi cao, trong khi Nguyễn Phú Trọng được đặc cách.

Tuy nhiên, quy tắc này hiện đang gặp nguy hiểm. Cuộc cạnh tranh năm nay gay gắt đến mức có một đề xuất rằng hai – hoặc thậm chí ba vị trí – nên được miễn trừ đặc biệt. Các ứng cử viên nổi bật đó là Trần Quốc Vượng (68 tuổi), Nguyễn Xuân Phúc (67 tuổi), Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân (67 tuổi) và Nguyễn Phú Trọng (77 tuổi).

Là lãnh đạo Đảng đương nhiệm và người đứng đầu Ban cán sự của Đại hội, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có quyền quyết định luật chơi như việc ấn định số lần miễn trừ. Việc có thêm nhiều quyền miễn trừ sẽ cho phép ông đưa ứng cử viên yêu thích của mình là Trần Quốc Vượng, hoặc chính mình, vào chức vụ Tổng bí thư mà không bị phản đối quá nhiều.

Tuy nhiên, động thái này có thể làm suy yếu hoặc hủy hoại các nỗ lực thể chế hóa của Đảng, phá vỡ sự thống nhất của Đảng và đặt ra một tiền lệ nguy hiểm: Những người mạnh mẽ của Đảng trong Đại hội tới sẽ có lý do chính đáng để bám vào quyền lực.

Quan trọng hơn, số lượng người nghỉ hưu do cao tuổi ít hơn đồng nghĩa với việc sẽ có ít ghế hơn được bầu vào. Con đường thăng tiến sự nghiệp – từ trung ương đến cơ sở – vì thế sẽ chững lại. Đối với thế hệ lãnh đạo trẻ – bao gồm cả các bí thư tỉnh thành nói trên – viễn cảnh này chắc chắn là điều không mong muốn.

Thứ nhất, việc tranh dành ghế sẽ khốc liệt hơn nhiều, có thể dẫn đến sự bè phái hơn nữa bên trong ĐCSVN. Thứ hai, những cán bộ trẻ hơn có thể có ít động lực hơn để làm việc, vì biết rằng nỗ lực của họ sẽ ít có khả năng được khen thưởng bằng việc thăng chức.

Đối với một chế độ coi trọng tính hợp pháp dựa trên hiệu suất, đây có thể là một tác dụng phụ tai hại. ĐCSVN có thể có nguy cơ đi xuống con đường suy tàn về thể chế mà Đảng Cộng sản Liên Xô đã trải qua dưới thời Leonid Brezhnev vào những năm 1970, khi độ tuổi trung bình của các thành viên Bộ Chính trị là trên 70. Sự lãnh đạo trì trệ khiến siêu cường Nga không thể thích ứng và cải cách đủ nhanh, dẫn đến sự sụp đổ cuối cùng vào năm 1991.

Do đó, trọng tâm chính của Đại hội tháng này không chỉ về việc ai sẽ là lãnh đạo tiếp theo, mà còn về cách ĐCSVN – và bản thân Tổng Bí thư Trọng – giải quyết hai mâu thuẫn cấp bách trong việc sắp xếp thể chế. Đó là những tình huống khó xử giữa tính cấp thiết so với tính bền vững trong việc lựa chọn lãnh đạo mới, và sự căng thẳng giữa việc gia tăng nền dân chủ nội bộ từ dưới lên và sự ưu tiên kéo dài đối với “nguyên tắc tập trung dân chủ” từ trên xuống. Đại hội 13 có thể đánh dấu một thời điểm quan trọng, đảm bảo khả năng phục hồi thể chế của ĐCSVN hoặc đánh dấu sự khởi đầu của sự suy thoái về thể chế.

N.K.G.

_____

* Nguyễn Khắc Giang là nghiên cứu sinh Tiến sĩ tại Đại học Victoria University of Wellington, New Zealand.

Nguồn: https://thediplomat.com/2021/01/vietnams-13th-congress-institutional-resilience-or-institutional-decay/

VNTB gửi BVN.

This entry was posted in Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, Thể chế. Bookmark the permalink.