Trung Quốc “ve vãn” nhưng có ai “phải lòng”?

Các quốc gia đang phát triển có bị hấp dẫn bởi mô hình phát triển kinh tế của Trung Quốc hay chỉ muốn tận dụng quan hệ với thị trường khổng lồ này? Nếu họ chưa bị hấp dẫn thì các quốc gia dân chủ phát triển khác lại càng không.

Diễn đàn Kinh tế Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết mới nhất của GS Joseph Nye, ĐH Harvard  “Sức mạnh Mỹ  và Trung Quốc sau khủng hoảng tài chính”

Mỹ đã bị chỉ trích nhiều vì cuộc khủng hoảng tài chính gần đây. Do nền kinh tế Mỹ sa sút còn Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng trưởng trong cuộc Đại suy thoái 2008-2009, các tác giả người Trung Quốc đã “tuôn ra một tràng những bình luận về sự xuống dốc của Mỹ”.

Một chuyên gia tuyên bố rằng năm 2000 là năm đỉnh cao của sức mạnh Mỹ. Những tuyên bố đó không chỉ người Trung Quốc mới nói. Goldman Sachs còn dự đoán thời điểm mà quy mô nền kinh tế của Trung Quốc vượt Mỹ là năm 2007. Năm 2009, trong một thăm dò dư luận do Trung tâm Nghiên cứu Pew tiến hành, đa số hoặc phần nhiều của 13 trong tổng số 25 quốc gia tin rằng, Trung Quốc sẽ thế chân Mỹ để trở thành siêu cường đứng đầu thế giới.

Năm 2008, Hội đồng Tình báo Quốc gia của Chính phủ Mỹ cũng dự đoán rằng, vào năm 2025, sự thống trị của Mỹ sẽ bị “thu hẹp rất nhiều”. Tổng thống Nga Dmitri Medvedev đã gọi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 là một dấu hiệu cho thấy, vai trò lãnh đạo toàn cầu của Mỹ đang dần đi tới hồi kết, và thậm chí là một nhà quan sát đầy thiện cảm như lãnh đạo phe đối lập Canada là ngài Michael Ignatieff cũng cho rằng, tầm nhìn của Canada nên vượt ra ngoài Bắc Mỹ mà giờ đây “thời điểm đỉnh cao nhất của Mỹ và cả sự thống trị toàn cầu của họ đã tới hồi cáo chung”.

Tuy nhiên, ai cũng lo ngại về các xu hướng ngoại suy lâu dài từ các sự kiện mang tính chất chu kỳ, trong khi vẫn nên nắm bắt rõ những phép ẩn dụ sai lệch từ sự suy thoái có tính chất hệ thống. Các quốc gia không giống như con người với những quãng đời. Chẳng hạn, sau khi Vương quốc Anh mất đi các thuộc địa Mỹ vào cuối thế kỷ 18, Horace Walpole tiếc nuối vì mất đi một vùng đất rộng “tương đương một quốc gia như Đan Mạch hoặc là Sardinia”. Ông đã không thể lường được rằng cuộc cách mạng công nghiệp có thể mang lại cho Vương quốc Anh một thế kỷ thứ hai đầy uy lực – thậm chí còn hùng mạnh hơn thế.

Liệu người dân Venezuela và Zimbabwe có bị hấp dẫn bởi chính quyền Bắc Kinh hay họ chỉ ngưỡng mộ tăng trưởng GDP của Trung Quốc trong suốt 3 thập kỷ qua, hay họ chỉ bị thuyết phục bởi triển vọng thâm nhập vào một thị trường lớn đang phát triển?

Cũng như vậy, Rome vẫn còn thống trị hơn ba thể kỷ sau thời cực thịnh của chính quyền La Mã. Nhưng, Rome còn không đủ sức đương đầu với sự trỗi dậy của các nhà nước khác, và diệt vong do bị các bộ tộc dã man xâu xé làm hàng ngàn mảnh. Thực tế, đối với các dự đoán về việc Brazil, Trung Quốc hoặc Ấn Độ “vượt mặt” Mỹ trong các thập kỷ sắp tới, các mối đe doạ lại xuất phát từ những chia cắt do các bộ tộc hiện đại và các nhân tố phi nhà nước.

Tất nhiên, khủng hoảng tài chính đã tạo nên các hiệu ứng mang tính chất lịch sử lên thứ có thể gọi là “mô hình Wall Street”. Vận hành kém cỏi của các thể chế Wall Street và các bộ máy điều chỉnh của Washington đã buộc New York phải trả giá đắt ở phương diện sức mạnh mềm, hay nói cách khác đó là sức hấp dẫn trong mô hình kinh tế của họ.

Vẫn còn là quá sớm để đánh giá các tác động lâu dài của cuộc khủng hoảng lên sức mạnh của Mỹ. Diễn đàn Kinh tế Thế giới vẫn xếp hạng nền kinh tế Mỹ có sức cạnh tranh đứng thứ hai trên thế giới (sau Thụy Sĩ) bởi tính năng động của thị trường lao động, giáo dục đại học, ổn định chính trị và sự cởi mở với sáng tạo, trong khi Trung Quốc chỉ xếp hạng thứ 29. Trong các lĩnh vực như công nghệ sinh học, công nghệ nano, và thế hệ thứ hai của World Wide Web, Mỹ vẫn đứng hàng đầu.

Tuy nhiên, trong khi một số người vẫn cho rằng Trung Quốc có thể vượt Mỹ về sức mạnh quân sự trong hai thập kỷ tới, nhiều người vẫn muốn coi cuộc khủng hoảng như là nhân tố gây biến đổi trong các quan hệ kinh tế và sức mạnh mềm. Do đó, vẫn cần phải tập trung vào diễn biến của cuộc khủng hoảng nhằm phân tích các mối quan hệ về sức mạnh giữa Trung Quốc và Mỹ.

Trung Quốc: Sức mạnh mềm trong thế kỷ 21?

Nhiều nhà quan sát thấy rằng sức mạnh mềm của Trung Quốc gia tăng ở châu Á và một số nơi khác trong thế giới đang phát triển, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính. Theo tờ Nhân dân Nhật báo, “sức mạnh mềm đã trở thành một từ khóa quan trọng… Trung Quốc có rất nhiều tiềm năng phát triển sức mạnh mềm”. Tại nhiều nơi ở thế giới đang phát triển, thứ được gọi là “Đồng thuận Bắc Kinh” cùng với một nền kinh tế thị trường thành công đã trở nên nổi tiếng hơn cả “Đồng thuận Washington” của các nền kinh tế thị trường tự do trước kia từng thống trị cùng với chính quyền dân chủ.

Nhưng cần nói thêm, liệu người dân Venezuela và Zimbabwe có bị hấp dẫn bởi chính quyền Bắc Kinh hay họ chỉ ngưỡng mộ tăng trưởng GDP của Trung Quốc trong suốt 3 thập kỷ qua, hay họ chỉ bị thuyết phục bởi triển vọng thâm nhập vào một thị trường lớn đang phát triển? Ngay cả khi mô hình tăng trưởng của Bắc Kinh tạo ra sức mạnh mềm cho Trung Quốc tại các quốc gia như thế, điều này cũng không có tác dụng tại các quốc gia dân chủ.

Người Trung Quốc thật sự quan tâm tới ý niệm “sức mạnh mềm”. Ngay từ đầu thập kỷ 1990, hàng trăm tiểu luận và các bài viết của giới học thuật về đề tài này đã xuất bản tại Trung Quốc. Thuật ngữ này cũng thâm nhập vào ngôn ngữ chính thức của Trung Quốc. Trong bài phát biểu quan trọng tại Đại hội 17 của Đảng Cộng sản Trung Quốc (CPC) vào ngày 15/10/2007, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào tuyên bố rằng CPC phải “củng cố văn hóa như là một phần của sức mạnh mềm của đất nước chúng ta… một nhân tố ngày càng quan trọng của năng lực cạnh tranh trong sức mạnh tổng lực của quốc gia”.

Trung Quốc có một nền văn hóa truyền thống rất lôi cuốn, nhưng giờ đây nó đang hòa nhập vào địa hạt của văn hóa đại chúng toàn cầu. Số lượng sinh viên nước ngoài tới Trung Quốc học tập tăng gấp ba lần trong thập kỷ vừa qua, và con số khách du lịch nước ngoài cũng tăng lên đáng kể. Trung Quốc đã xây dựng hàng trăm học viện Khổng Tử trên khắp thế giới để dạy ngôn ngữ và văn hóa của mình, và Đài Phát thanh Quốc tế của Trung Quốc cũng tăng thời lượng phát sóng bằng tiếng Anh lên tới 24 giờ/ngày. Trong năm 2009-2010, Trung Quốc đã đầu tư 8.9 tỉ USD vào “công việc quảng bá ra bên ngoài”, bao gồm kênh tin tức 24giờ trên cáp của Tân Hoa Xã mô phỏng theo kênh al Jazeera.

Trung Quốc cũng điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình. Một thập kỷ trước, Bắc Kinh vẫn còn cảnh giác với những dàn xếp đa phương và bất đồng với các nước láng giềng. Rồi sau đó thì họ gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, đóng góp hơn 3000 lính tới phục vụ các hoạt dộng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, và trở nên hữu ích với hoạt động ngoại giao nhằm hạn chế phổ biến vũ khí (trong đó có việc tổ chức các vòng đàm phán Sáu bên về vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên), giải quyết các bất đồng về lãnh thổ với các nước láng giềng, và tham gia vào rất nhiều tổ chức trong khu vực với hội nghị Đông Á là ví dụ gần đây nhất.

Chính sách ngoại giao này đã giúp làm dịu những lo ngại và giảm dần khả năng các nước khác liên minh với nhau để cân bằng với nguồn sức mạnh đang gia tăng. Theo một nghiên cứu, “phong cách của Trung Quốc nhấn mạnh vào các mối quan hệ mang tính biểu tượng, các cử chỉ mang tính thiện ý cao, chẳng hạn như việc tái thiết lại Quốc hội Campuchia hoặc Bộ Ngoại giao Mozambique”.

Nhưng sức mạnh mềm của Trung Quốc vẫn có những hạn chế.

Vào năm 2006, Trung Quốc đã lấy ngày kỷ niệm các chuyến thám hiểm của đô đốc kiêm hoa tiêu Trịnh Hòa – một sứ thần triều Minh (người mà Trung Quốc cho là đã đặt chân tới châu Mỹ đầu tiên) – để vẽ nên một huyền thoại nhằm biện hộ cho sự bành trướng của hải quân nước này về phía Ấn Độ Dương. Nhưng điều đó không mang lại cho họ sức mạnh mềm tại Ấn Độ – nơi mà những ngờ vực về tham vọng hải quân của Trung Quốc đã tạo ra bầu không khí nghi kỵ.

Tương tự, Trung Quốc nỗ lực thúc đẩy sức mạnh mềm bằng cách tổ chức thành công Thế vận hội tại Bắc Kinh năm 2008, nhưng những vụ đàn áp thẳng tay của họ đối với các sự kiện tại Tây Tạng, Tân Cương và các nhà hoạt động nhân quyền đã làm cho các thành quả sức mạnh mềm bị mất giá.

Vẫn còn là quá sớm để đánh giá các tác động lâu dài của cuộc khủng hoảng lên sức mạnh của Mỹ… Bất chấp việc bị chỉ trích vì cuộc khủng hoảng tài chính, sức mạnh mềm của Mỹ vẫn lớn hơn nhiều so với của Trung Quốc.

Năm 2009, Bắc Kinh tuyên bố các kế hoạch chi tiêu hàng tỉ USD để phát triển các hãng truyền thông khổng lồ mang tầm vóc toàn cầu để cạnh tranh với Bloomberg, Time Warner, và Viacom “để sử dụng ‘ sức mạnh mềm’, chứ không phải là sức mạnh quân sự để có thể thu phục bằng hữu bên ngoài”. Tuy nhiên, các nỗ lực của Trung Quốc lại gặp phải trở ngại từ chính sự kiểm duyệt chính trị trong nước.

Đối với các nỗ lực nhằm biến Tân Hoa Xã và Truyền hình Trung ương Trung Quốc trở thành các đối thủ của CNN và BBC, “chương trình tuyên truyền gay gắt sẽ chẳng bao giờ có được khán giả quốc tế”. Các bộ phim Ấn Độ của Bollywood còn có được lượng khán giả quốc tế hơn rất nhiều so với phim của Trung Quốc sản xuất. “Gần đây, khi Trương Nghệ Mưu – vị đạo diễn được nhiều người ngợi ca – được hỏi là tại sao phim của ông lại toàn là phim cổ trang, ông nói rằng các bộ phim về Trung Quốc đương đại đều có thể bị trung hòa đi trong quá trình kiểm duyệt”.

Do đó, cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi một cuộc thăm dò dư luận được tiến hành tại châu Á vào cuối năm 2008 cho thấy, sức mạnh mềm của Trung Quốc vẫn còn kém xa so với của Mỹ, và kết luận rằng cuộc “tấn công mê hoặc” của Bắc Kinh không đạt được hiệu quả. Điều này đã được khẳng định trong một cuộc thăm dò dư luận do BBC tiến hành tại 28 quốc gia vào năm 2010, rằng hình ảnh của Trung Quốc mang tính tích cực chỉ hiện diện ở châu Phi và một vài nơi ở châu Á – chẳng hạn như là Pakistan, trong khi hầu hết các nước châu Mỹ, châu Á và châu Âu hình ảnh này chỉ được xếp từ mức “trung tính” cho tới “rất tệ”.

Bất chấp việc bị chỉ trích vì cuộc khủng hoảng tài chính, sức mạnh mềm của Mỹ vẫn lớn hơn nhiều so với của Trung Quốc – theo kết quả của các thăm dò của Hội đồng Chicago về các vấn đề toàn cầu và của hãng BBC. Các cường quốc ra sức vận dụng văn hóa và lịch sử của mình để tạo dựng nên sức mạnh mềm để thúc đẩy các thế mạnh của họ, nhưng phần nhiều trong số đó lại được tạo nên từ xã hội dân sự chứ không phải từ phía chính quyền.

Sức mạnh mềm của Mỹ dựa trên các nguồn lực khác nhau, từ Hollywood cho tới Havard, từ Madona cho tới Quỹ Gates, từ các bài diễn thuyết của Martin Luther King cho tới cuộc bầu cử của Barack Obama. Các chính quyền không dễ gì khiến cho mọi người biết rõ giá trị của sức hấp dẫn của đất nước họ nếu như truyền thuyết của họ không nhất quán với các thực tế trong nước. Ở khía cạnh đó, trừ thành công về mặt kinh tế thì Trung Quốc vẫn còn cả một chặng đường rất dài.

J. N.

Thu Lượng dịch

Nguồn: http://vef.vn/2010-11-16-trung-quoc-ve-van-nhung-co-ai-phai-long-

This entry was posted in Trung Quốc. Bookmark the permalink.