Ngày 13 Tháng Sáu 2023
Biên dịch: GaD
Tàu sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc trong cuộc tập trận ở Biển Đông ngày 18 tháng Tư 2018. Ảnh: AFP/Getty Images
Trung Quốc sẵn sàng trì hoãn mục tiêu sở hữu toàn bộ vùng biển trong đường chín đoạn của mình, đánh đổi chiến thắng nhanh chóng để lấy một chiến thắng ít gây tranh cãi hơn.
Một đại tá cấp cao Quân đội Giải phóng Nhân dân [Trung Quốc, PLA] đã nghỉ hưu gần đây đã viết rằng Biển Đông “nguy hiểm hơn nhiều” so với Đài Loan và có khả năng gây ra chiến tranh Mỹ-Trung.
Lập luận của ông là, mặc dù các cuộc chạm trán gần giữa tàu và máy bay của Mỹ và Trung Quốc hiếm khi xảy ra gần Đài Loan, nhưng chúng lại thường xuyên xảy ra ở Biển Đông và có thể dễ dàng dẫn đến một vụ nổ súng tình cờ leo thang thành một cuộc xung đột quân sự lớn hơn.
Tuy nhiên, sẽ hợp lý hơn khi lập luận rằng Biển Đông ít dễ xảy ra chiến tranh hơn Eo biển Đài Loan. Bắc Kinh nói rằng sự hỗ trợ ngày càng tăng của Mỹ đang thúc đẩy Đài Loan tiến tới độc lập, điều mà chính phủ Trung Quốc đã cam kết tiến hành chiến tranh để ngăn chặn.
Ngược lại, các hoạt động “tự do hàng hải” của Mỹ ở Biển Đông, trong đó các tàu Hải quân Mỹ đi qua vùng biển do Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trong thời gian ngắn, hầu như không làm được gì để làm suy yếu vị thế của Trung Quốc.
Trong khi cả Đài Loan và Biển Đông đều là trường hợp của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc, chính sách của Trung Quốc đối với chủ nghĩa bành trướng được đặc trưng bởi sự kiên nhẫn – mặc dù được củng cố bởi sự khẳng định rằng các chính phủ khác không được kiếm lợi lâu dài bằng chi phí của Trung Quốc.
Trung Quốc kiên quyết đạt được mục tiêu mong muốn: quyền sở hữu lãnh thổ trên biển và các thực thể đất liền trong đường chín đoạn của mình. Tuy nhiên, Bắc Kinh sẵn sàng trì hoãn việc thực hiện mục tiêu đó trong tương lai. Nó đánh đổi một chiến thắng nhanh chóng để lấy một chiến thắng ít gây tranh cãi hơn.
Có công bằng không khi gọi chính sách của Trung Quốc là “chủ nghĩa bành trướng”?
Tuyên bố chính thức của Bắc Kinh về lập trường của họ chỉ giới hạn ở đường chín đoạn (đôi khi có thêm một đoạn thứ mười để bao quanh Đài Loan) và một tuyên bố thường được lặp đi lặp lại, “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo và vùng biển lân cận của chúng ở Biển Đông”.
Kể từ năm 1999, mỗi mùa hè, Bắc Kinh đều đơn phương áp đặt lệnh cấm người nước ngoài đánh bắt cá ở phía bắc Biển Đông vượt xa mọi cách giải thích hợp lý về vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Trung Quốc. Đây là một minh chứng có tính toán về kiểm soát hành chính.
Gần đây, trước nhiều trường hợp tàu Trung Quốc tham gia vào các hoạt động quấy rối hoặc trái phép gần bờ biển các quốc gia Đông Nam Á, người phát ngôn Trung Quốc đã nói thêm: “Không có chuyện [Trung Quốc] đi vào vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia khác”, dường như cho thấy Bắc Kinh không chấp nhận nguyên tắc các nước khác có vùng đặc quyền kinh tế ở Biển Đông.
Toàn bộ chính sách của Trung Quốc cho thấy một nỗ lực nhằm sáp nhập các vùng biển và vùng trời quốc tế, cùng với các vùng biển và thực thể mà các chính phủ khác tuyên bố họ có quyền sở hữu, và biến chúng thành lãnh thổ của Trung Quốc. Điều đó cấu thành chủ nghĩa bành trướng.
Mọi cường quốc bành trướng trong kỷ nguyên hiện đại đều tuyên bố rằng việc họ sáp nhập lãnh thổ nước ngoài là hợp lý. Về phần mình, Bắc Kinh lập luận rằng việc sử dụng lịch sử của Trung Quốc và các bản đồ kế thừa từ các chính phủ Trung Quốc trước đây chứng minh rằng Biển Đông thuộc về Trung Quốc một cách hợp pháp.
Điều này làm rối rắm vấn đề bằng cách phủ lên nó một lớp vỏ ngoài của chủ nghĩa bất xứng, có vẻ ít hung hăng hơn – nghĩa là, người Trung Quốc đang tuyên bố lãnh thổ mà họ tin là của họ, chứ không phải lãnh thổ mà họ cho là thuộc về các quốc gia khác.
Tuy nhiên, thật không may cho Bắc Kinh, hiệp ước được chấp nhận rộng rãi do Hội nghị Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) đưa ra lại không ủng hộ các yêu sách của Trung Quốc. Mặc dù là một bên ký kết hiệp ước UNCLOS, nhưng Bắc Kinh đã coi thường sự liên quan của hiệp ước đối với tranh chấp Biển Đông, nổi tiếng là bác bỏ phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực năm 2016 chống lại Trung Quốc.
Nếu không có cơ sở cho chủ nghĩa quy nguyên của Trung Quốc, thì chúng ta chỉ còn lại chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc. Tuy nhiên, đó là một chủ nghĩa bành trướng kiên nhẫn. Gây sức ép để giành chiến thắng nhanh chóng sẽ kéo theo mức độ xung đột tương đối cao.
Ở mức tối thiểu, nó sẽ làm tăng thêm nỗi sợ hãi giữa các quốc gia trong khu vực rằng Trung Quốc mới trỗi dậy là một kẻ bắt nạt hung hãn muốn thực hiện một chương trình nghị sự tư lợi. Nó cũng có khả năng kéo Trung Quốc vào một cuộc xung đột quân sự. Hậu quả lâu dài sẽ là khóa ít nhất một số quốc gia trong khu vực vào các thỏa thuận an ninh chống lại Trung Quốc.
Theo quan điểm của Bắc Kinh, sẽ tốt hơn nhiều nếu các thủ đô trong khu vực tự mình đi đến kết luận rằng phản kháng là vô ích, và lựa chọn tốt hơn của họ là chiều lòng Trung Quốc bằng cách chấp nhận tầm nhìn về quyền sở hữu nhân từ của Trung Quốc đối với Biển Đông.
Loại chế độ là một yếu tố quan trọng trong sự kiên nhẫn của Bắc Kinh. Về chính trị trong nước, chính phủ Trung Quốc có thể có tầm nhìn xa vì Đảng Cộng sản Trung Quốc cầm quyền không có đối thủ và nhà lãnh đạo tối cao Tập Cận Bình dường như được đảm bảo nhiệm kỳ trọn đời.
Tàu cảnh sát biển Trung Quốc 3901, lớn nhất thế giới. Ảnh: Nhật báo Trung Quốc
Trung Quốc tìm cách giành chiến thắng mà không cần chiến đấu bằng cách thể hiện sức mạnh tương đối áp đảo. Hải quân, lực lượng bảo vệ bờ biển và đội tàu đánh cá Trung Quốc đều lớn nhất thế giới tính theo số lượng tàu. Lực lượng bảo vệ bờ biển của Trung Quốc bao gồm một số tàu chiến hải quân được sơn lại và tự hào có tàu tuần duyên lớn nhất thế giới, nặng hơn một tàu tuần dương của Hải quân Mỹ.
Chính phủ Trung Quốc sử dụng hàng trăm tàu đánh cá dân sự để tràn vào và chiếm đóng các phần của Biển Đông, và các tàu hải quân và cảnh sát biển hỗ trợ không bao giờ ở xa. Không bên tranh chấp nào khác có thể cạnh tranh với hạm đội rộng lớn này. Sự hiện diện khắp nơi của các tàu Trung Quốc báo hiệu rằng các bên yêu sách đối địch không thể giành chiến thắng.
Việc Trung Quốc thường xuyên quấy rối tàu nước ngoài chứng tỏ một quyết định chính sách dựa vào sự đe dọa ở mức độ thấp hơn là loại hành động quân sự bạo lực, trực tiếp mà Trung Quốc đã chọn vào năm 1988 để chiếm Đá Gạc Ma từ tay Việt Nam.
Đồng thời, Bắc Kinh đưa ra những đảm bảo để giúp các nước láng giềng dễ dàng chấp nhận chương trình nghị sự của họ. Trung Quốc nói rằng họ không can thiệp vào quyền tự do hàng hải của các nước khác ở Biển Đông. Bắc Kinh đưa ra các dự án phát triển chung với các quốc gia yêu sách riêng lẻ.
Trung Quốc cũng mời các bên yêu sách đối địch đạt được một giải pháp với Trung Quốc thông qua các cuộc đàm phán song phương. Tuy nhiên, điều quan trọng là đây là một định dạng sẽ tối đa hóa đòn bẩy của Trung Quốc với tư cách là quốc gia mạnh hơn nhiều trong số hai quốc gia tại bàn. Bắc Kinh tránh cho phép các quốc gia yêu sách khác đàm phán với tư cách là một nhóm chống lại họ.
Trung Quốc đã đồng ý với Tuyên bố không ràng buộc về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DoC) năm 2002, và vẫn tham gia vào các cuộc đàm phán về một Bộ quy tắc ứng xử (CoC) mạnh mẽ hơn kể từ đó.
Tuy nhiên, bằng bất kỳ cách giải thích hợp lý nào, Trung Quốc đã vi phạm các điều cấm của tuyên bố đối với “các hoạt động làm phức tạp hoặc leo thang tranh chấp” và việc chiếm giữ lãnh thổ mới. Kể từ năm 2002, Trung Quốc đã tạo ra các căn cứ quân sự mới trên hàng trăm mẫu đất khai hoang ở Biển Đông cũng như chiếm đóng Bãi cạn Scarborough, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và trước đây ngư dân Philippines đã tiếp cận.
Trong hai thập kỷ, Bắc Kinh đã cản trở tiến trình hướng tới một bộ quy tắc ứng xử có ý nghĩa, làm đình trệ quá trình và cố gắng làm suy yếu nội dung của bất kỳ thỏa thuận được đề xuất nào.
Bắc Kinh đã yêu cầu một bộ quy tắc ứng xử
• không nên ràng buộc về mặt pháp lý;
• không nên bao gồm quần đảo Hoàng Sa (mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền) hoặc bãi cạn Scarborough (mà Philippines tuyên bố chủ quyền);
• nên cấm các quốc gia yêu sách đưa các công ty nước ngoài vào khai thác tài nguyên và tổ chức các cuộc tập trận quân sự chung ở Biển Đông với các quốc gia bên ngoài khu vực (chẳng hạn như Mỹ); và
• nên yêu cầu các bên yêu sách tự giải quyết tranh chấp của mình bằng sự đồng thuận thay vì khiếu nại lên các tòa án quốc tế làm việc theo các hướng dẫn của UNCLOS.
Gần đây, Bắc Kinh đã bày tỏ sự quan tâm đến việc nhanh chóng đạt được thỏa thuận về một bộ quy tắc ứng xử. Động lực cho sự cấp bách mới này dường như là mong muốn ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ, điều mà Trung Quốc cho là đang gia tăng nỗ lực chống lại các yêu sách của Trung Quốc.
Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị năm 2022 đã nói rằng Đông Nam Á có nguy cơ “bị sử dụng như những quân cờ trong cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc lớn” và rằng “tương lai của khu vực chúng ta nên nằm trong tay chính chúng ta”. Đối với chính phủ Trung Quốc, sự ủng hộ rõ ràng đối với tuyên bố và bộ quy tắc ứng xử là một hành động chủ yếu mang tính hoài nghi mà không có ý định thực hiện bất kỳ thỏa hiệp đáng kể nào.
Điều này dẫn đến yếu tố cuối cùng của chính sách Trung Quốc. Sự kiên nhẫn của Bắc Kinh dựa trên đánh giá rằng quá trình hướng tới đạt được trạng thái cuối cùng mà họ mong muốn đang được cải thiện, dù chỉ là dần dần. Chính phủ Trung Quốc can thiệp, thường là gay gắt, khi họ tin rằng có nguy cơ mất đất vào tay các bên yêu sách đối thủ hoặc Mỹ.
Tình hình tại Bãi Cỏ Mây bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines là một ví dụ điển hình. Cả Bắc Kinh và Manila đều tuyên bố thực thể này là lãnh thổ quốc gia.
Philippines đã cố ý cho tàu đổ bộ xe tăng Sierra Madre thời Thế chiến 2 neo đậu tại bãi cạn này vào năm 1999 để làm chốt canh gác cho binh lính Philippines. Con tàu bây giờ là một con tàu đổ nát. Quân lính sống trên tàu yêu cầu các tàu Philippines khác tiếp tế thường xuyên.
Lập trường chính thức của Trung Quốc là cho phép tiếp tế như “một thỏa thuận tạm thời, đặc biệt vì lý do nhân đạo”, nhưng chính phủ Philippines nên đưa con tàu ra khỏi bãi cạn.
Sierra Madre, con tàu mắc cạn được Philippines sử dụng làm trạm gác ở Bãi Cỏ Mây, đang tan rã. Ảnh: Viện Hải quân Mỹ
Trên thực tế, tàu Trung Quốc đôi khi cản trở và đôi khi núp bóng nhiệm vụ tiếp tế, và đặc biệt hung hăng trong việc cản trở các nỗ lực vận chuyển vật liệu xây dựng để sửa chữa Sierra Madre.
Năm 2021, tàu Trung Quốc được cho là đã bắn vòi rồng cao áp vào tàu Philippines đang cố gắng tiếp cận Sierra Madre. Ngày 6 tháng 2 năm nay, theo Lực lượng bảo vệ bờ biển Philippines, một tàu Trung Quốc đã thực hiện các động tác ngăn chặn nguy hiểm và chiếu tia laser cực mạnh vào một tàu tuần tra Philippines đang cố gắng tiếp cận và tiếp tế cho Sierra Madre. Tia laser tạm thời làm mù một số thủy thủ tàu tuần tra.
Chính phủ Philippines đã công bố video bằng chứng về vụ tấn công bằng laser. Không thể phủ nhận một cách chính đáng, Bắc Kinh cho biết tàu tuần duyên của họ đã sử dụng một tia laser cầm tay vô hại (không phải là “laser cấp độ quân sự” như cáo buộc) để đo tốc độ và khoảng cách của tàu Philippines.
Bãi Cỏ Mây minh họa một số khía cạnh rộng lớn hơn trong chính sách của Trung Quốc. Bắc Kinh không yêu cầu thực hiện ngay mục tiêu cuối cùng của mình (loại bỏ con tàu mắc cạn), nhưng bằng lòng với việc quấy rối thường xuyên và ở mức độ thấp để nhắc nhở Philippines rằng cuối cùng họ phải đầu hàng.
Các cuộc tấn công của Trung Quốc nhằm vào tàu Philippines vẫn nằm trong vùng xám – vòi rồng và tia laze, không phải hỏa lực của hải quân. Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr cho biết vụ tấn công bằng laser không đủ cơ sở để viện dẫn hiệp ước phòng thủ Mỹ-Philippines.
Bắc Kinh có vẻ thoải mái với khoảng cách lớn giữa lời nói và việc làm. Các hành động báo hiệu sự sẵn sàng hành động bằng bạo lực tàn nhẫn nếu cần thiết, trong khi lời nói nhằm mục đích duy trì hình ảnh hợp lý và không hung hăng mà họ mong muốn.
Sự xuống cấp đều đặn của con tàu cho thấy thời gian đang đứng về phía Trung Quốc. Tuy nhiên, Bắc Kinh phản ứng mạnh mẽ đối với bất kỳ hành động nào sẽ làm giảm vĩnh viễn vị thế của Trung Quốc, chẳng hạn như công việc sửa chữa sẽ kéo dài tuổi thọ của Sierra Madre.
Chủ nghĩa bành trướng kiên nhẫn thích hợp hơn chủ nghĩa bành trướng khẩn cấp. Nhưng vẫn còn nhiều điều sai trái trong chính sách Biển Đông của Trung Quốc: đe dọa, không trung thực và coi thường luật pháp quốc tế.
Và ngay cả khi mức độ dễ xảy ra chiến tranh thấp hơn ở eo biển Đài Loan, Trung Quốc vẫn làm nhiều hơn trách nhiệm của mình để duy trì căng thẳng địa chính trị cao ở Biển Đông.
D.R.
—-
Denny Roy là thành viên cao cấp tại Trung tâm Đông-Tây, Honolulu.
Nguồn bản gốc: Asia Times
Nguồn bản dịch: Nghiên cứu Lịch sử