Phan Chánh Dưỡng
Sau nhiều năm chậm triển khai, ngày 1.9.2021, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định phê duyệt mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến 2050. Trong đó riêng khu vực miền Đông và miền Tây Nam bộ có 10 tuyến cao tốc liên kết các địa phương, từ TP.HCM đi các tỉnh Đông Nam bộ và các tỉnh ĐBSCL với tổng chiều dài 1.290km. Theo quy hoạch này, riêng vùng ĐBSCL có các tuyến kết nối nội vùng và TP.HCM: TP.HCM – Tiền Giang – Bến Tre – Trà Vinh; Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng; Hà Tiên – Rạch Giá (Kiên Giang) – Bạc Liêu; Hồng Ngự (Đồng Tháp) – Trà Vinh. Ngày 22.4 vừa qua, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tổ chức hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 2.4.2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, được coi là mở ra giai đoạn mới phát huy thế và lực phát triển ĐBSCL. Trước đó, ngày 21.4 Chính phủ cũng đã có nghị quyết về hoàn thiện thể chế liên kết vùng kinh tế xã hội… |
Nhiều năm qua, khi đề cập đến chính sách phát triển Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), người ta thường nêu hai vấn đề cốt lõi là tính liên kết vùng và đầu tư hạ tầng giao thông. Với tư cách “chiến lược gia” đặt nền móng đưa khu Phú Mỹ Hưng (quận 7, TP.HCM) thành đô thị kiểu mẫu số một Việt Nam, ông Phan Chánh Dưỡng (hiện là giám đốc Quỹ Hỗ trợ cộng đồng Đinh Thiện Lý) đã dày công phác thảo các ý tưởng phát triển ĐBSCL.
Ông Phan Chánh Dưỡng.
Các góp ý của ông phần lớn dựa trên các cuộc làm việc trực tiếp với các địa phương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Ban Kinh tế Tây Nam và Chương trình Fulbright (Mỹ) hợp tác với ĐBSCL.
Ông đã có cuộc trao đổi với Người Đô Thị về những điều tâm huyết mà theo ông “không phải người nào cũng mặn mà”. Ông nói: “Góp ý của tôi cho ĐBSCL là đúc kết kinh nghiệm hơn 30 năm phát triển vùng đất Nhà Bè từ lúc chưa có gì cho đến hôm nay. Nam Sài Gòn không phải là một đề án mà là cái nhìn toàn cục cho cả vùng kinh tế phía Nam. Đã là kinh tế thì không có biên giới hành chính. ĐBSCL cũng vậy. Tư duy một đề án nào đó phải nằm trong vùng nào đó thì rất khó để có tầm nhìn ở một không gian lớn hơn. Phải thừa nhận một điều là chúng ta mãi bị hành chính kinh tế trói buộc. Muốn làm gì đó ra khỏi ranh giới này thật không dễ. Nhưng ít ra, chúng ta phải tự mình biết rằng phát triển kinh tế không thể bị bó buộc trong hành chính”.
Cục bộ đừng mơ phát triển
Ông có thể cho một điển hình về cái nhìn này trong thực tế?
Khi làm cảng Hiệp Phước, khổ nhất là không có nước. Lưỡi nước ngọt gần nhất có thể cung cấp cho dự án là Long Hậu thuộc Long An. Xác định được vị trí rồi nhưng phải tốn thêm rất nhiều công sức, tiền bạc cho nghiên cứu tiền khả thi về dòng chảy cho phép khai thác tối đa bao nhiêu nước một ngày. Kết quả là khai thác tối đa 5.000m3/ngày thì có thể duy trì được mãi mạch nước ngầm này. Chỉ cần lấy vượt lên 6.000-7.000m3/ngày thôi, lưỡi ngọt đó sẽ bị xâm nhập mặn.
Kể ra như thế để thấy câu chuyện phát triển cần nghiên cứu thực địa nghiêm túc chứ không thể nói lý thuyết, coi bản đồ mà làm được. Khi nói về một cuộc quy hoạch phát triển kinh tế thì phải tập hợp biết bao suy nghĩ, nghiên cứu một cách liên hoàn chứ không thể là một đề án tách biệt. Tôi nói như vậy để chúng ta thấy rõ rằng không thể có kinh tế độc lập giữa địa phương này với địa phương kia, đồng thời ngay cả từng đề án cũng không thể độc lập. Nhưng hầu như hiện nay chúng ta đang rơi vào tình trạng này.
Nói phát triển ĐBSCL mà vẫn cứ nhìn trong sự tách biệt 13 tỉnh, thành thì không bao giờ phát triển được hết. Làm sao có chuyện An Giang muốn phát triển mà độc lập với Cần Thơ; hay Cần Thơ không quan tâm đến Sóc Trăng, Hậu Giang mà đòi phát triển? Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa thấy có một suy nghĩ gì mang tính liên kết dù đã nói rất nhiều. Trung ương rót tiền vô thì mỗi tỉnh xem là của mình, chỉ muốn làm cái gì cho mình thôi. Tính cục bộ ghê gớm tới mức đã làm chết đi sức mạnh của đất nước này.
Đó có phải là lý do vì sao quan điểm phát triển ĐBSCL của một số chuyên gia đều gắn với TP.HCM. Địa thế và tiềm năng của vùng đất này tự nó có thể thành động lực phát triển không, thưa ông?
Muốn phát triển ĐBSCL, 13 tỉnh thành không thể thoát khỏi sự gắn kết với TP.HCM và cũng không thể nào không gắn kết với TP. Cần Thơ. Đây là hai cái tâm của một elip kinh tế. Tương tự như vậy, TP.HCM còn là tâm của các elip kinh tế khác để kết nối với các tỉnh Đông Nam bộ cũng như Tây Nguyên. Thực tế tính liên kết chỉ mang tính hình thức. Nghĩa là 13 tỉnh đồng bằng năm nào cũng họp thống nhất là chúng ta phải liên kết nhau, nhưng họp xong rồi về tiếp tục mạnh ai nấy làm. Hay nói cho công bằng, có liên kết nhưng mà liên kết rất ít nên làm sao phát triển được!
Ngay từ khi làm khu chế xuất Tân Thuận, chúng tôi đã nghĩ ngay đến cảng Hiệp Phước, nạo vét sông Soài Rạp và khi muốn lấy nước từ Long Hậu thì phải tính đến phát triển Long An. Bây giờ có con đường từ Bến Lức đi qua Hiệp Phước, qua Nhơn Trạch là vì hồi xưa chúng tôi đã phác họa với cái nhìn làm sao để phát triển Nhơn Trạch. Con đường qua cầu Phú Mỹ cũng không phải dừng lại ở đó mà hướng qua phía Nhơn Trạch luôn. Nhưng khi làm cầu Phú Mỹ xong thì vẫn còn cái tư duy qua Nhơn Trạch làm gì, vì nó thuộc tỉnh Đồng Nai!
Đặc thù địa hình sông nước khiến việc xây dựng cơ sở hạ tầng vùng đồng bằng sông Cửu Long rất khó khăn (ảnh: chợ nổi Ngã Năm thuộc tỉnh Sóc Trăng).
Ảnh: CTV
Đồng ý rằng địa thế và tiềm năng của ĐBSCL rất tốt nhưng phải làm sao phá vỡ tính cục bộ. Phá vỡ được tư duy đó, bấy giờ mọi người mới có thể nhìn ra vấn đề là phải đầu tư cái gì có lợi cho cả 13 tỉnh thành. Xét về mặt tổng thể, cứ coi 13 tỉnh thành ĐBSCL là 13 sinh vật nhỏ và bây giờ làm thế nào biến tất cả thành một sinh vật lớn. Như vậy mỗi sinh vật nhỏ trở thành một bộ phận có chức năng riêng. Chứ không thể suy nghĩ như lâu nay, ví dụ mỗi tỉnh, thành đều muốn có một cái cảng riêng, để làm gì? Đó không phải là tư duy phát triển kinh tế, mà sao đâu đâu cũng nặng tư duy hành chính như thế?
Và muốn cho cơ thể của sinh vật lớn đó vận hành tốt thì trước tiên “hệ thống thần kinh” phải xuyên suốt. Hệ thần kinh ám chỉ cách tư duy. Thứ hai là “hệ thống tuần hoàn” phải thông thương, đó là nguồn sống, là kinh tế thị trường. Yếu tố thứ ba là “hệ thống xương”, tức là kết nối giao thông, phải hoàn thiện. Cả ba tổng hòa mới quyết định sự phát triển, đặc biệt là “hệ thống thần kinh” phải lan tỏa khắp mọi nơi trong cơ thể bằng tư duy thống nhất thì mới xóa được cục bộ.
Giao thông quyết định hình thái kinh tế, xã hội
Như ông nói, một trong ba yếu tố quyết định sự phát triển ĐBSCL là “hệ thống xương”, tức việc đầu tư các con đường nhằm liên kết các tỉnh. Vậy theo ông, nên ưu tiên phát triển theo chiến lược hạ tầng thế nào để đồng bằng phát huy các thế mạnh nhanh nhất?
Tôi thấy hiện nay có các đề xuất theo hướng phát triển các con đường ven biển, dọc theo tuyến biên giới với Campuchia và mấy con đường bên trong. Tôi nghĩ khác. Tôi chỉ phác họa các đường bên trong đều là đường cao tốc, gồm 3 đường dọc theo phương Bắc – Nam và 5 đường ngang theo phương Đông – Tây. Sở dĩ như vậy là nhằm tránh dùng các đường cũ làm nền. Vì đường cũ của mình được hình thành từ thời Pháp thuộc chỉ với mục đích kiểm soát, khống chế và khai thác thuộc địa. Tới thời kỳ kháng chiến chống Mỹ vẫn sử dụng các con đường theo kiểu như vậy.
Tuy nhiên, độc lập rồi chúng ta phải có ý tưởng khác biệt. Con đường của mình là nhằm đem lại sự phát triển cho cả vùng đất này. Đường hiện hữu cứ để đó và quy hoạch cái mới, để lấy cái cũ gắn vào cái mới, chứ không phải lấy cái mới gắn vào cái cũ. Quy hoạch cũ thì theo kiểu dân số sống dọc theo các tuyến đường. Muốn có nền kinh tế không thể quy hoạch dân sống theo tuyến như vậy mà phải sống theo cụm.
Cụm đó nằm ở đâu? Xin trả lời: nằm ở các điểm giao thông để hình thành các đô thị và nằm ở vùng nguyên liệu. Các con đường mới phải theo mô hình đó. Dân cư tập trung theo cụm thì sẽ bố trí luôn hạ tầng xã hội như bệnh viện, trường học… Sau 1975 nếu mình làm mới như vậy thì việc giải bài toán sẽ rất khác. Còn cứ trên cơ sở cái cũ mở rộng ra một chút thì không thể nào đủ phát triển tiềm năng của một đất nước như Việt Nam.
Từ Sài Gòn về Cần Thơ chỉ mất khoảng một tiếng rưỡi đi xe, rồi từ Cần Thơ đến tất cả những nơi khác tương tự như vậy, thì tất cả vùng đồng bằng sẽ phát triển hết. Do đó, “hệ thống xương” hay hệ thống giao thông quyết định bản chất của sinh vật. Muốn ra chim đại bàng thì hệ thống giao thông phải “có cánh”, muốn là con vật chạy bốn chân thì phải có “hệ xương sống” và “xương chân” là chính, muốn là sinh vật lưỡng nghi trườn bằng bụng thì hệ xương phải như “con rắn”… Xin nhắc lại, hệ thống giao thông không những quyết định phát triển kinh tế mà còn định vị cho hình thái xã hội của một vùng.
Thưa ông, dù đã đề ra nhiều giải pháp, chính sách nhưng dường như vai trò thể chế trong việc liên kết phát triển vùng chưa phát huy thực chất?
Thể chế chính là hệ thống thần kinh như tôi nói. Tư duy của ta vẫn trên nền tảng văn hóa phương Đông. Mình cũng học hỏi “người khác” nhưng rồi giữ lại thành của mình một cách lộn xộn, không xuyên suốt. Cái nào cũng có nhưng cái nào cũng thiếu. Như cái gọi là hội đồng vùng thì chủ yếu là mấy vị xếp vào cho có. Theo tôi, để giải quyết bài toán vùng kinh tế như TP.HCM và ĐBSCL thì về mặt nhân sự, chắc chắn phải là một phó thủ tướng phụ trách chứ không phải là ông chủ tịch nào.
Tôi từng suy nghĩ cả nước Việt Nam chỉ cần chia ra 8 vùng, hoặc tối đa 12 vùng kinh tế, để thay thế cách phân chia 63 tỉnh, thành như hiện nay. Hoặc chỉ cần duy trì 63 đơn vị đó chủ yếu để quản trị hành chính, cung cấp dịch vụ công mà thôi. Mô hình hiện nay giao cho UBND các tỉnh làm công việc của một đơn vị kinh tế thì kết quả ra sao chúng ta thấy rồi.
Ngoài ra, cần chú trọng đầu tư lĩnh vực nào để đáp ứng đòi hỏi phát triển lâu dài, bền vững cho một khu vực kinh tế như ĐBSCL, thưa ông?
Nhắc đến ĐBSCL là nhắc đến nông nghiệp và chỉ nông nghiệp. Công nghệ sinh học là lãnh vực vô cùng quan trọng cần đầu tư. Các thứ “phần cứng, phần mềm” còn lại chỉ là công cụ để phục vụ chứ các ngành đó không thể và không phải là động lực phát triển. Đó phải là ngành sinh học, giúp giải quyết tất cả những gì đồng bằng muốn phát huy sức mạnh, từ giống cây trồng cho đến chế biến, bảo vệ môi trường để tạo ra những sản phẩm nông nghiệp độc đáo của Việt Nam. Cho đến giờ vẫn chưa có được một viện sinh học nông nghiệp tầm cỡ quốc tế tại đồng bằng, thật buồn. Tôi xuống khảo sát các trường ở ĐBSCL thì số lượng sinh viên chọn ngành sinh học là ít nhất nước!
Xin cảm ơn ông.
P.C.D.
Nguồn: Nguoidothi