Bi kịch người nghèo đổ sữa!

Người nghèo đổ bỏ sữa, xem ra có vẻ đấy như là một nghịch lý! Sữa là một loại đồ uống rất cần trong chiến lược đảm bảo dinh dưỡng nâng cao thể trạng của người Việt Nam. Và đối với hàng triệu gia đình nghèo thì đó vẫn là mặt hàng xa xỉ mà Nhà nước cần bình ổn giá. Vậy mà thời gian qua, nông dân (xã Phù Đổng huyện Gia Lâm – Hà Nội và xã Tu Tra và Đạ Ròn Huyện Đơn Dương – Lâm Đồng) v.v… là tầng lớp nghèo của nước ta đã đổ bỏ hàng nghìn lít sữa vắt từ những con bò mà họ ngày đêm chăm bẵm. Điều gì đã xảy ra vậy?

Nguyên nhân của hiện tượng phi lý này là do trước đây khi giá sữa bột nhập khẩu tăng cao (trong suốt cả năm 2013 giá sữa bột nguyên dao động ở mức trên dưới US$5000/tấn) trong khi sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng ¼ nhu cầu về sữa thì để chủ động nguồn nguyên liệu một số doanh nghiệp đã tích cực xúc tiến phát triển đàn bò bằng cách hỗ trợ vốn, kỹ thuật chăn nuôi, tăng giá thu mua sữa tươi nguyên liệu lên đáng kể (hiện dao động trong khoảng trên dưới 14 ngàn đồng/kg) và thu mua hết sữa cho nông dân.

Với sự hỗ trợ kỹ thuật tích cực của doanh nghiệp cùng với giá thu mua sữa tươi nguyên liệu ở mức chấp nhận được, nông dân thấy nuôi bò sữa cho thu nhập ổn định nên đã tích cực đầu tư tăng đàn, nâng cao chất lượng đàn bò sữa, chính vì vậy tới nay số lượng đàn bò ở nhiều nơi đã tăng khá mạnh và sản lượng cũng như chất lượng sữa đều tăng cao. Điều này, có thể sẽ tiếp diễn một cách êm đẹp nếu như không có chuyện giá sữa bột trên thế giới thời gian qua giảm mạnh và chưa có dấu hiệu phục hồi trong ngắn hạn.  Hiện tại, khi giá sữa trên thế giới đã giảm tới hơn 50% so với đầu năm 2014 thì các doanh nghiệp trong nước đã viện đủ mọi lý do để hạn chế thu mua sữa từ nông dân, ví dụ như công suất nhà máy chế biến có hạn, nhu cầu tiêu thụ giảm về mùa đông, nông dân không ký hợp đồng, nông dân lấy cả sữa bên ngoài vào bán vv… Doanh nghiệp thực hiện điều này bắt đầu bằng việc siết chặt hạn mức thu mua sữa, không thu mua sữa thừa và tùy tiện đặt ra qui định hạn mức sữa bình quân của 1 con bò là 16 lít!?

Cần phải nói rằng sữa là một trong số ít ngành có mối quan hệ mật thiết giữa người sản xuất và chế biến. Nông dân không thể và không dám sản xuất sữa nếu không liên kết với doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm vì lượng tiêu thụ ra bên ngoài là rất nhỏ và không ổn định mà sữa thì phải vắt và bán hàng ngày chứ không thể để dành. Để bán được sữa nông dân phải ký hợp đồng dài hạn với doanh nghiệp trong đó cam kết tuân thủ tất cả các qui định của nhà chế biến không chỉ về chất lượng sữa mà cả về số lượng bò sữa, lượng sữa giao hàng tuần và hàng tháng. 

Do doanh nghiệp hạn chế thu mua, nông dân ở Lâm Đồng phải đổ bỏ sữa ra đường. Ảnh: Thạch Thảo

Để có thể gây dựng được một đàn bò sữa gồm khoảng 1-2 chục con nông dân cần đến cả chục năm cần mẫn chăm sóc và chắt chiu vốn liếng để đầu tư. Mỗi con bò sữa giống có giá tới 7-8 chục triệu đồng nên nông dân không thể một lúc bỏ ra vài trăm triệu đến cả tỷ đồng để đầu tư. Họ chỉ có thể bắt đầu từ 1-2 con rồi từ từ tuyển chọn và nhân rộng đàn. Việc phát triển và nhân rộng đàn bò sữa trong dân khá khó khăn và cần thời gian nhưng xóa sổ đàn bò thì lại rất dễ như đã từng diễn ra vào nửa đầu của thập niên 2000 khi phong trào chăn nuôi bò sữa phát triển ào ạt theo ý chí của các cấp chính quyền ở nhiều địa phương. Tình trạng đổ bỏ sữa thừa nếu không được giải quyết ngay sẽ dẫn đến nguy cơ nông dân bỏ bê không chăm sóc, thậm chí phải bán bò.

Nông dân và doanh nghiệp đều đang trông chờ Nhà nước ra tay kịp thời giải quyết tình trạng bất cập nói trên một cách thấu tình, đạt lý. Hiện nay, ở Việt Nam không phải tất cả các hãng sữa đều tham gia phát triển vùng nguyên liệu sữa trong nước mà chỉ có một số doanh nghiệp tự đầu tư phát triển đàn bò và/hoặc hợp đồng với nông dân phát triển đàn bò sữa. Khi giá sữa bột nhập khẩu giảm mạnh nhưng giá sữa thành phẩm trong nước lại không giảm thì lẽ dĩ nhiên những doanh nghiệp chỉ kinh doanh sữa bột và sữa hoàn nguyên sẽ có lợi hơn những doanh nghiệp có tham gia phát triển vùng nguyên liệu trong nước.

Như vậy, vấn đề ở đây là sự công bằng trong kinh doanh. Giải quyết được điều này sẽ khiến cho các doanh nghiệp tham gia phát triển vùng nguyên liệu yên tâm tiếp tục đồng hành với nông dân. Biện pháp đơn giản nhất có thể làm ngay lúc này là nâng thuế nhập khẩu sữa bột nguyên liệu và áp dụng hạn ngạch nhập khẩu đối với những doanh nghiệp tham gia phát triển vùng nguyên liệu sữa trong nước. Cụ thể là những doanh nghiệp nào phát triển vùng nguyên liệu sữa trong nước thì được cấp quota nhập khẩu sữa bột với thuế suất thấp còn doanh nghiệp không phát triển vùng nguyên liệu sữa thì phải chịu mức thuế suất thuế nhập khẩu cao và hạn mức nhập khẩu được cấp tùy thuộc vào mức độ phát triển vùng nguyên liệu. Doanh nghiệp nào có nhiều hợp đồng ký với nông dân thì được cấp hạn mức nhập sữa cao và ngược lại.

Nói đến việc nâng thuế nhập khẩu sữa bột nguyên liệu sẽ có ý kiến phản đối với lý do sữa là mặt hàng thiết yếu và thuộc diện bình ổn giá, nhưng thực tế cho thấy khi giá sữa nguyên liệu tăng thì doanh nghiệp lập tức tăng giá sữa thành phẩm. Tuy nhiên, hiện tại khi giá sữa nguyên liệu đã giảm một nửa thì giá sữa thành phẩm vẫn đứng nguyên không nhúc nhích. Người tiêu dùng vẫn phải trả giá cao bất kể sữa nguyên liệu có giảm giá đến thế nào vậy thì hà cớ gì mà Nhà nước không có chính sách để bảo hộ người sản xuất trong nước cũng là để chủ động nguồn cung vì thực tế trong nhiều năm qua cho thấy giá sữa biến động rất thất thường, lúc lên, lúc xuống.

Từ 2008 đến nay thị trường sữa toàn cầu đã chứng kiến không phải chỉ 1 lần giá sữa sụt giảm sâu, chính vì vậy việc chủ động một phần nguyên liệu trong nước là điều nên làm nhằm ổn định thị trường đồng thời góp phần tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho cư dân nông thôn.

Theo các qui định của WTO, Việt Nam cam kết thuế nhập khẩu cuối cùng đối với các sản phẩm sữa khi tham gia WTO là từ 10-25% tùy từng loạị. Thực tế theo Thông tư 164/2013/TT-BTC ngày 15/11/2013 thì các mức thuế áp dụng đối với sữa và sản phẩm từ sữa thấp hơn cam kết WTO rất nhiều nên về nguyên tắc nếu muốn bảo hộ trong nước, thì vẫn có thể tăng thuế lên kịch trần.  Đây là biện pháp tự vệ được sử dụng để bảo vệ ngành công nghiệp nội địa khỏi sự gia tăng đột biến của bất kỳ sản phẩm nhập khẩu nào gây ra hoặc đe dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp đó. Nói cách khác, biện pháp tự vệ được sử dụng nhằm ngăn chặn tạm thời luồng nhập khẩu để giúp ngành sản xuất nội địa tránh những đổ vỡ trong một số trường hợp đặc biệt khó khăn.

Cũng giống như chuyện xăng dầu tăng giảm, người đi phương tiện cơ giới luôn chịu thiệt. Chuyện giá sữa bò cũng vậy, và người chăn nuôi bò đang chịu thiệt đơn, thiệt kép.

Tuy nhiên, một câu hỏi được đặt ra vai trò điều tiết của cơ quan quản lý Nhà nước ở đâu? Năng lực quản lý yếu của những người “cầm cân nảy mực” chính là một trong những nguyên nhân gây nên những chuyện đáng buồn nói trên.

T.V.T.

Tác giả gửi BVN

This entry was posted in Lên Tiếng. Bookmark the permalink.