Việt Nam: ‘Kỳ tích châu Á’ tiếp theo?

Ruchir Sharma
Khánh An dịch

http://vietnamthoibao.org/wp-content/uploads/2020/10/No-DNNN.jpg

Trong vòng vài ngày kể từ khi Trung Quốc công bố ca nhiễm Covid-19 đầu tiên, Việt Nam đã quyết liệt ngăn chặn virus corona lây lan. Sử dụng tin nhắn điện thoại, quảng cáo truyền hình, biển quảng cáo, áp phích và loa phóng thanh, chính phủ đã hô hào 100 triệu công dân xác định người mang mầm bệnh và truy tìm các người tiếp xúc F1, F2 và thậm chí cả F3. Việc nhanh chóng cô lập các ổ dịch đã giữ cho tỷ lệ tử vong của Việt Nam nằm trong số bốn nước thấp nhất trên thế giới – với chưa tới một người chết trên một triệu người.

Việc kiềm chế được đại dịch cho phép Việt Nam nhanh chóng mở cửa kinh tế trở lại và hiện được dự đoán là nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới trong năm nay. Trong khi nhiều quốc gia đang phải chịu những suy giảm kinh tế lớn và nhờ đến Quỹ Tiền tệ Quốc tế giải cứu tài chính, thì Việt Nam đang tăng trưởng với tốc độ 3% hàng năm. Ấn tượng hơn nữa, sự tăng trưởng của Việt Nam có được nhờ thặng dư thương mại kỷ lục, bất chấp sự sụp đổ trong thương mại toàn cầu.

Khoảnh khắc đột phá này đối với Việt Nam đã lâu lắm rồi mới có được. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, “những kỳ tích châu Á” – đầu tiên là Nhật Bản, sau đó là Đài Loan và Hàn Quốc, gần đây nhất là Trung Quốc – đã vươn lên thoát nghèo bằng cách mở cửa cho thương mại và đầu tư cũng như trở thành cường quốc sản xuất xuất khẩu.

Hiện giờ, Việt Nam đang đi theo con đường tương tự, nhưng trong một thời đại hoàn toàn mới. Những điều kiện tạo nên những kỳ tích ban đầu có thể không còn nữa. Làn sóng người sinh sau thời hậu chiến đã kết thúc. Thời đại toàn cầu hóa nhanh chóng, với dòng chảy thương mại và đầu tư ngày càng tăng, đã đi qua. Tăng trưởng kinh tế đang chậm lại trên toàn thế giới. Trong môi trường này, các siêu cường không còn bỏ qua các chiến thuật mà kỳ tích trước đó đã sử dụng để có được lợi thế. Tuần trước, Hoa Kỳ chính thức cáo buộc Việt Nam thao túng tiền tệ và khởi xướng cuộc điều tra tương tự như cuộc điều tra đã gây ra cuộc chiến thuế quan với Trung Quốc.

Một mối đe dọa lớn hơn nữa đối với sự phát triển không ngừng của Việt Nam là Việt Nam đã bị cai trị trong gần nửa thế kỷ bởi cùng một đảng độc tài. Không có sự phản đối, những người chuyên quyền có thể thúc đẩy tăng trưởng rất nhanh, nhưng thường thì những ý tưởng bất chợt và sự ám ảnh về chính sách không được kiểm soát của họ lại tạo ra các chu kỳ bùng nổ và phá sản thất thường, làm đình trệ phát triển. Những rào cản này làm cho những gì mà chế độ chuyên quyền có thẩm quyền vô đối của Việt Nam đã đạt được cho đến nay trở nên ấn tượng hơn – nhưng cũng khó để duy trì hơn nhiều.

Trong những năm bùng nổ, những kỳ tích ban đầu của châu Á đã tạo ra mức tăng trưởng xuất khẩu hàng năm gần 20% – gần gấp đôi mức trung bình của các quốc gia có thu nhập thấp hoặc trung bình vào thời điểm đó. Việt Nam đã duy trì tốc độ tương tự trong ba thập kỷ. Ngay cả khi thương mại toàn cầu sụt giảm trong những năm 2010, xuất khẩu của Việt Nam đã tăng 16% một năm, cho đến nay là tốc độ nhanh nhất trên thế giới và gấp ba lần mức trung bình của các quốc gia mới nổi.

Trong khi các quốc gia mới nổi khác chi mạnh tay cho phúc lợi xã hội nhằm xoa dịu cử tri, Việt Nam dành nguồn lực cho xuất khẩu, xây dựng đường xá, bến cảng để đưa hàng hóa ra nước ngoài và xây dựng trường học để đào tạo người lao động. Chính phủ đầu tư khoảng 8% GDP mỗi năm cho các dự án xây dựng mới, và hiện được xếp hạng chất lượng cơ sở hạ tầng cao hơn so với bất kỳ quốc gia nào ở giai đoạn phát triển tương tự.

Việt Nam cũng hướng tiền đầu tư nước ngoài theo chiều hướng tương tự. Trong 5 năm qua, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt trung bình hơn 6% GDP, tỷ lệ cao nhất trong quốc gia mới nổi. Phần lớn số tiền đó dùng để xây dựng các nhà máy sản xuất và cơ sở hạ tầng liên quan, và hầu hết hiện nay từ các quốc gia châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc. Những kỳ tích cũ đang giúp xây dựng ckỳ tích mới.

Việt Nam đã trở thành điểm đến ưa thích của các nhà sản xuất xuất khẩu, khiến Trung Quốc phải tìm kiếm mức lương rẻ hơn. Thu nhập bình quân đầu người hàng năm ở Việt Nam đã tăng gấp 5 lần kể từ cuối những năm 1980 lên gần 3.000 USD/người, nhưng chi phí lao động vẫn chỉ bằng một nửa so với Trung Quốc, và lực lượng lao động được giáo dục tốt đối với tầng lớp thu nhập của họ. Nguồn lao động có kỹ năng đó đang giúp Việt Nam “leo thang”, có lẽ nhanh hơn bất kỳ đối thủ nào, để sản xuất hàng hóa ngày càng tinh vi. Công nghệ đã vượt qua quần áo và dệt may để trở thành mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam vào năm 2015 và chiếm phần lớn trong kỷ lục thặng dư thương mại năm nay.

Việt Nam cũng là quốc gia theo khuynh hướng bảo hộ, Cộng sản ủng hộ mở cửa biên giới mở, ký kết hơn một chục hiệp định thương mại tự do – trong đó có một thỏa thuận mang tính bước ngoặt mới được ký kết với Liên minh châu Âu.

Liệu Việt Nam có thể tiếp tục thành công của mình, bất chấp những trở ngại tiềm tàng như dân số thu hẹp, thương mại giảm sút và sự kìm kẹp lâu dài của chính phủ chuyên quyền về quyền lực? Có lẽ. Trong khi tốc độ tăng dân số trong độ tuổi lao động đang chậm lại, phần lớn người Việt Nam vẫn sống ở nông thôn, do đó, nền kinh tế có thể tiếp tục phát triển bằng cách chuyển lao động từ nông thôn vào làm việc trong nhà máy ở thành thị. 5 năm qua, không có quốc gia lớn nào tăng tỷ trọng xuất khẩu toàn cầu nhiều hơn Việt Nam.

Và cho đến nay, Chính phủ Việt Nam chưa mắc phải kiểu sai lầm chính sách nghiêm trọng thường làm chậm phát triển kinh tế ở các quốc gia chuyên quyền. Việt Nam đang làm cho chủ nghĩa tư bản chuyên quyền hoạt động tốt một cách bất thường, thông qua các chính sách kinh tế cởi mở và quản lý tài chính hợp lý.

Phần lớn các nền kinh tế thời hậu chiến tăng trưởng siêu nhanh hoặc phá sản đều do các chính phủ độc tài điều hành. Cho đến nay, Việt Nam đã duy trì được tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ, phần lớn không nằm trong tình trạng dư thừa cổ điển, như thâm hụt lớn của chính phủ hoặc nợ công.

Một vấn đề có thể xảy ra: Sau nhiều vòng tư nhân hóa, chính phủ sở hữu ít công ty hơn, nhưng những công ty thuộc sở hữu nhà nước vẫn rất lớn và chiếm gần một phần ba sản lượng kinh tế – giống như một thập kỷ trước. Nếu có rắc rối xảy ra, thì sẽ bắt đầu từ những công ty nhà nước cồng kềnh này với những khoản nợ ngân hàng khó đòi

Điều đáng chú ý là các khoản nợ gia tăng cũng dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài chính đánh dấu sự kết thúc của sự tăng trưởng bền vững ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, và bây giờ là cả Trung Quốc. Vì vậy, những nguy cơ luôn có trên bất kỳ con đường phát triển nào. Còn bây giờ, Việt Nam giống như một kỳ tích của một thời đã qua, xuất khẩu để đạt được thịnh vượng.

R.S.

___

* Ruchir Sharma là trưởng chiến lược gia toàn cầu tại Morgan Stanley Investment Management, tác giả gần đây nhất của cuốn “Mười quy tắc của các quốc gia thành công” và là một nhà văn đóng góp ý kiến. Bài luận này chỉ phản ánh ý kiến ​​của mình.

Nguồn: New York Times

VNTB gửi BVN

This entry was posted in Chau Á, Việt Nam trên bàn cờ thế giới hiện tại. Bookmark the permalink.