Việt Nam bắt đầu thời kỳ vỡ nợ quốc gia?

21/10/2019

Phạm Chí Dũng

Vỡ nợ? Có gì mà sợ! Vỡ Đảng mới sợ!”

Vũ Thư Hiên

Những ai có theo dõi tin tức thời sự trong nhiệm kỳ đảng 12 này thì sẽ không lấy làm ngạc nhiên. Sau khi hạ bệ xong ông 3X, bộ sậu mới bước lên ngai vàng, đã thấy nơi này nơi khác công khai thông báo về tình trạng kiệt tiền; có văn phòng đảng ủy một tỉnh nào đấy chỉ còn đâu chừng mấy chục triệu. Thế rồi mọi việc bỗng im ắng, tưởng như tình thế bi đát đã vượt được qua. Có hay đâu mọi sự đâu vẫn còn đó. Và giờ đây, sau ba năm ăn tiêu xả láng, sắp tới lúc hạ màn một nhiệm kỳ Đại hội 12 “thành công tốt đẹp” thì cái tổ chuồn chuồn mới thò ra. Vâng, thì ta lại… vác rá đi vay vậy – mà lần này là vay với khoản lãi không còn ưu đãi – để rồi một núi nợ mới khủng khiếp lại sẽ khoác tiếp lên cổ thằng dân thôi. Trong khi nào Đảng nào Chính phủ nào Quốc hội người nào người ấy mắt nhìn ra Biển Đông hấp ha hấp háy (hay nói cho đúng ra là lấm lét) và lưỡi thì cứ líu lại. Có ai sốt ruột lên tiếng, cũng gọi là nói mấy câu cho bõ tức, thì lập tức ngài Tổng tịch lại còn lên giọng gay gắt hơn: làm như Tổng bí thư Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội không yêu nước à? Vâng, thì xin mời các ngài cứ yêu nước. Tha hồ! Nhưng yêu vừa thôi cụ Tổng tịch ơi. Yêu dữ quá thì sang năm lại còn khoác tiếp lên cổ dân một núi nợ khác dễ phải to đùng bằng mấy quả núi hôm nay, e dân chết không kịp ngáp, còn có nhân lực đâu mà chèo thuyền đánh cá ra ngăn cản lũ “anh em đồng chí” của cụ nghênh ngáo đưa tàu vào sát tận bờ biển nước mình? Cụ có nghe Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh nói gì không? Xem chừng cụ ấy đã 104 tuổi rồi mà còn minh mẫn hơn cụ nhiều đấy.

Bauxite Việt Nam 

Trong bối cảnh chính phủ của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc vẫn tiếp nối đà say men thắng lợi với những con số tăng trưởng GDP lên đến 7% nhưng lại bị nghi ngờ lớn về ‘ma số liệu’, còn ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng vẫn mê man về ‘đất nước ta chưa bao giờ ổn định như thế này!’ và ‘triển vọng phát triển còn tốt lắm’, vào ngày 10/10/2019 hãng đánh giá tín nhiệm có uy tín của quốc tế là Moody’s đã bất ngờ thông báo đang xem xét hạ mức tín nhiệm quốc gia Việt Nam xuống từ mức Ba3 hiện tại, đồng thời xem xét hạ mức đánh giá 17 ngân hàng Việt Nam, vì một lý do hiếm khi được công bố: Chính phủ Việt Nam chậm thanh toán một số khoản nợ tới hạn.

‘Rủi ro tín dụng đáng kể’ và núi nợ xấu ngân hàng

Thang xếp hạng của Moody’s được cấu tạo từ Aa đến Caa với ký hiệu các con số 1, 2 và 3; con số càng thấp thì xếp hạng càng cao. Mức từ Aa đến Aa3 có chất lượng cao nhất và rủi ro tín dụng thấp nhất; từ A1 đến A3 có chất lượng trên trung bình và mức rủi ro thấp; từ Ba1 đến Ba3 có yếu tố đầu tư, nhưng rủi ro tín dụng đáng kể; còn các mức xếp dưới nữa lần lượt có yếu tố đầu tư, nhưng rủi ro tín dụng cao; và chất lượng thấp và rủi ro tín dụng rất cao.

Hiện thời, mức Ba3 mà Moody’s xếp hạng tín nhiệm quốc gia Việt Nam là có yếu tố đầu tư, nhưng rủi ro tín dụng đáng kể.

Mức xếp hạng trên là phù hợp với thực tế về tình trạng tăng trưởng nóng về tín dụng (đẩy vốn ra thị trường) của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong nhiều năm qua, đặc biệt vốn tín dụng được bơm vào hai kênh đầu cơ chủ yếu là thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản.

Hậu quả của chính sách tăng trưởng tín dụng nóng và sử dụng đòn bẩy cao (margin) từ những năm 2006, 2007 đến nay là một núi nợ xấu ngân hàng, trong đó nợ không thể đòi (những khoản vay mất khả năng thanh toán) có thể chiếm đến 50% tổng nợ xấu.

Tổng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay vẫn cao ngất, có thể lên đến 900.000 – 1 triệu tỷ đồng hoặc hơn, bất chấp việc Ngân hàng Nhà nước và chính phủ vẫn luôn công bố là đã ‘khuôn’ nợ xấu dưới mức 3%. Cho tới nay và sau 5 năm Công ty quản lý tài sản các tổ chức tín dụng (VAMC) ra đời, hoạt động ‘xử lý nợ xấu’ vẫn chỉ chủ yếu… trên giấy.

Và núi nợ nước ngoài

Từ trước tới nay chính phủ và Bộ Tài chính Việt Nam vẫn luôn công bố rằng họ luôn trả nợ nước ngoài đầy đủ và kịp thời. Tuy nhiên, họ lại chưa bao giờ công bố chi tiết về các khoản nợ nước ngoài, bao gồm nợ của chính phủ, nợ do chính phủ bảo lãnh, và nợ tự vay tự trả của các doanh nghiệp Việt Nam.

Nhưng động thái xem xét hạ mức tín nhiệm Việt Nam của Moody’s đã cho thấy tình trạng chậm thanh toán nợ tới hạn đang ở mức báo động, điều mà có thể dẫn tới tình trạng mất khả năng thanh toán và do đó dẫn tới hậu quả cuối cùng là vỡ nợ quốc gia. Khi đưa ra những đánh giá về mức xếp hạng như thế, điều hiển nhiên là Moody’s đã phải có trong tay những cơ sở thông tin tài chính và kinh tế chắc chắn, thu thập từ chính các chủ nợ của lớn nhất chính phủ Việt Nam như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB), Nhật Bản…

Cho tới nay, con số chung nhất được chính phủ Việt Nam công bố là chính phủ này nợ nước ngoài hơn 100 tỷ USD.

Nhưng ngoài con số trên, còn có hơn 100 tỷ USD khác là nợ nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam, để cộng chung lại số nợ nước ngoài của Việt Nam hiện thời là hơn 200 tỷ USD, gần bằng toàn bộ GDP một năm của đất nước này.

Nhưng đó mới chỉ là nợ nước ngoài, chưa kể một núi nợ khác – nợ trong nước bằng tiền đồng Việt Nam, tương đương hơn 200 tỷ USD nợ của chính phủ và của các doanh nghiệp.

Đáng chú ý, số nợ nước ngoài hơn 200 tỷ USD chỉ là nợ được thống kê chính thức, trong khi vẫn có thể phát sinh những khoản nợ nước ngoài lớn từ các doanh nghiệp. Vào tháng 9 năm 2019, Tổng cục Thống kê Việt Nam thình lình công bố phát hiện thêm 76.000 doanh nghiệp mà trước đó không nằm trong sổ sách của cơ quan này – mà động cơ phía sau công bố này là nhằm ‘hô biến’ GDP tăng thêm để lấy ‘thành tích đại hội 13’ cho Thủ tướng Phúc. Nhưng cũng chính công bố phát sinh này – chiếm đến hơn 10% tổng số doanh nghiệp hoạt động ở Việt Nam – chắc chắn sẽ kéo theo nhiều khoản vay nước ngoài mà trước đây không được thống kê bởi Bộ Tài chính.

“Doanh nghiệp nhà nước vay nước ngoài tăng vọt, ai sẽ trả nợ?”- giới chuyên gia, báo chí và cả quan chức cùng hốt hoảng kêu lên. “Nếu các doanh nghiệp này là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhà nước chiếm cổ phần chi phối không có khả năng trả nợ thì nợ này ai trả, bởi đây đều là các doanh nghiệp nhà nước?”.

Thực tế trong nhiều năm qua cho thấy nhiều tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước vay nợ tràn lan, với tâm lý vay là cực kỳ vô trách nhiệm. Thậm chí một số doanh nghiệp còn có sẵn sàng “xù nợ” khi làm ăn lỗ lã.

Có đến ít nhất 30% số tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước đã rơi vào vòng lỗ lã, và đối mặt với nguy cơ phá sản kể từ năm 2008, khi kinh tế Việt Nam bắt đầu rơi vào giai đoạn suy thoái.

Vào năm 2015, thủ tướng lúc đó là Nguyễn Tấn Dũng cho biết Việt Nam phải trả nợ đến 20 tỷ USD. Đến năm 2016, người “may mắn” thế chỗ cho ông Dũng là Nguyễn Xuân Phúc cho biết Việt Nam phải trả 12 tỷ USD. Những năm gần đây, nợ nước ngoài phải trả cũng có thể lên đến hàng chục tỷ USD mỗi năm.

Bắt đầu thời kỳ vỡ nợ quốc gia?

Công bằng mà xét, Nguyễn Xuân Phúc là đời thủ tướng “cực hình” nhất trong lịch sử tồn tại của đảng Cộng sản Việt Nam. Trả nợ nhiều nhất, kinh tế be bét nhất, xã hội hỗn tạp nhất, chính trị “tan nát” nhất…

Vào năm 2017, chính phủ của thủ tướng ‘đổ vỏ’ Nguyễn Xuân Phúc đã phải đề ra hạn ngạch bảo lãnh cho vay chỉ 1 tỷ USD – con số thấp nhất trong nhiều năm gần đây. Mức bảo lãnh chỉ có 1 tỷ USD như thế đã phải giảm mạnh so với những năm trước đó (năm 2015 là 2,5 tỉ USD và 2016 là 1,5 tỉ USD), và giảm rất mạnh so với mức 6,6 tỷ USD của năm 2014.

Sang năm 2018 và 2019, hạn ngạch bảo lãnh này thậm chí còn ít ỏi hơn nữa, hoặc gần như không còn tồn tại.

Nợ nhiều đến mức vào năm 2017, chính phủ phải tuyên bố thẳng thừng sẽ không đưa nợ vay nước ngoài của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước vào khái niệm nợ công, nằm trong Luật về Nợ công (sửa đổi). Điều này đồng nghĩa với việc chính phủ từ chối trả thay nợ vay nước ngoài cho doanh nghiệp, và hẳn sẽ có nhiều doanh nghiệp nhà nước phải phá sản.

Trong bối cảnh giật gấu vá vai như thế, vào năm 2018 Ngân hàng thế giới đã đưa ra một cảnh báo giật mình: trong 3 năm tới, có đến 50% nợ trong nước của Chính phủ sẽ đáo hạn, tức chính phủ này phải đối mặt với nguy cơ rất lớn là không biết lấy đâu ra tiền để trả nợ, trừ việc… in tiền ồ ạt.

Còn đến giờ đã gần hết năm 2019, lọt thỏm vào giai đoạn ‘50% nợ trong nước của Chính phủ sẽ đáo hạn’, tương ứng với đánh giá của Moody’s về việc Chính phủ Việt Nam chậm thanh toán một số khoản nợ tới hạn và đồng thời xem xét hạ mức đánh giá 17 ngân hàng Việt Nam. Nếu động thái này được Moody’s hoàn tất, sẽ có đến 50% trong số các ngân hàng Việt Nam rơi vào tình trạng bị hạ bậc tín nhiệm – nhiều nhất từ trước tới nay.

50% lại là ước tính của giới chuyên gia tài chính về khả năng có đến phân nửa số ngân hàng đang tồn tại phải bị sáp nhập, hoặc cho phá sản do tỷ lệ nợ xấu quá cao và không bảo đảm khả năng thanh toán cho khách hàng. Tuy nhiên mối nguy hiểm thường trực này vẫn bị bưng bít bởi Ngân hàng Nhà nước trong những năm gần đây. Chỉ là con đê bị trám bít loang lổ ấy sẽ bục vỡ vào một thời điểm nào đó mà thôi – có thể gọi là thời điểm ‘Minsky’, tức hoàn toàn mất khả năng thanh toán các khoản vay nợ.

Phá sản ngân hàng đang trở thành tương lai hầu như chắc chắn, để cộng hưởng với tình trạng mất khả năng trả nợ nước ngoài của chính phủ và doanh nghiệp, nền tài chính Việt Nam sẽ rơi gọn cả hai chân vào hố sâu khủng hoảng.

Còn ngay vào lúc này khi hiện ra công bố hạ tín nhiệm của Moody’s, phải chăng Việt Nam đã bắt đầu thời kỳ vỡ nợ quốc gia?

P.C.D.

Tác giả gửi BVN

This entry was posted in Nợ nước ngoài, Vỡ nợ. Bookmark the permalink.