(1) BÃI TƯ CHÍNH: VIỆC VN KIỆN TQ RA TOÀ QUỐC TẾ ĐANG ĐƯỢC NHẮC LẠI
BBC 24 tháng 7 2019
Bức ảnh được chụp ngày 6/5/2013 cho thấy các thủy thủ TQ đứng trên một tàu đánh cá trên quần đảo Trường Sa, một quần đảo tranh chấp giữa TQ, Việt Nam và Philippines. Bản quyền hình ảnh AFP/GETTY IMAGES
Ý kiến của giới quan sát rằng giờ đã đến thời điểm Việt Nam dùng biện pháp pháp lý để phản ứng lại hành động của Trung Quốc liên quan vụ Bãi Tư Chính.
Tại sao lại là bây giờ, khi Trung Quốc từng gây hấn nhiều lần trên Biển Đông trong các năm qua?
Trao đổi với Mỹ Hằng của BBC hôm 23/7, ông Hoàng Việt, giảng viên ĐH Luật TP Hồ Chí Minh, nhà nghiên cứu luật Quốc tế, nói Việt Nam đã khá chậm trong việc phản ứng lại hành động của Trung Quốc trong vụ Bãi Tư Chính.
Do đó, ông Hoàng Việt cho rằng nếu không ngay lập tức có các giải pháp tức thì để tranh thủ ủng hộ của thế giới, trong đó có việc kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế, thì hậu quả có thể khó lường.
Philippines đã đơn phương kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế và đã ‘thắng lớn’ năm 2016.
“Tôi được biết là mỗi lần có sự cố như vụ Bãi Tư Chính thì chính phủ thường cho họp các cơ quan ban ngành và tìm ý kiến. Nhưng đến lúc tìm ra giải pháp thì sự việc đã xảy ra một thời gian khá lâu rồi. Trong vụ Bãi Tư Chính phải gần nửa tháng sau mới thấy Việt Nam có tiếng nói chính thức”.
“Phải hiểu rằng Việt Nam cần có sự thận trọng, cân nhắc khi đối đầu với một đối thủ quá mạnh là Trung Quốc. Không như Philippines ngăn cách với Trung Quốc bằng đường biển, Việt Nam có đường biên giới trên bộ liền với Trung Quốc và vì vậy, dễ tổn thương hơn khi đối đầu với nước này. Trung Quốc đã có nhiều ‘đòn’ nhắm vào Việt Nam. Ví dụ ngay khi sự kiện Bãi Tư Chính xảy ra, Trung Quốc đã đóng tất cả các đập trên thượng nguồn sông Mekong khiến vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam dưới hạ nguồn bị khô hạn nghiêm trọng. Ngoài ra còn các ‘đòn’ thương mại khác. Việt Nam đã rút ra bài học xương máu sau cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 nên đã chọn đấu tranh trong hòa bình”.
“Nhưng lùi một bước để tiến ba bước cũng là chiến thuật để đối đầu với một đối thủ quá mạnh. Ví dụ Việt Nam từng bắt buộc phải ngưng thăm dò hai lô dầu khí trên Biển Đông năm 2018 dưới sức ép của Trung Quốc. Nhưng sau đó một thời gian Việt Nam lại hoạt động trở lại các lô này. Trong vụ Bãi Tư Chính, chúng ta đã có sự mềm mỏng nhất định, nhưng nếu không có kịch bản để phản ứng ngay tức thì thì sẽ khó khăn hơn rất nhiều trong tương lai”.
“Giải pháp ngay lúc này, theo tôi là, cần tranh thủ sự ủng hộ, trợ giúp của quốc tế bằng mặt trận thông tin. Cần đưa các nhà báo quốc tế tới nơi xảy ra sự việc để đưa tin chân thực, sống động về tình hình nóng bỏng tại nơi này cho thế giới biết, như Việt Nam đã từng làm năm 2014 khi Trung Quốc mang giàn khoan 981 tới vùng biển Việt Nam.
“Song song với việc này, cần ngay lập tức kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế. Việc Tòa Trọng tài PCA năm 2016 tuyên bố Philippines thắng trong vụ nước này đơn phương kiện Trung Quốc đã tạo thuận lợi lớn cho Việt Nam để khởi kiện Trung Quốc. Điều mà trước sự kiện 2016 Việt Nam có thể không làm được”.
Vì sao có thể kiện lúc này?
Asia Maritime Transparency Initiative mô tả tàu Trung Quốc Haijing 35111 quấy rối hai tàu Sea Meadow 29 và Crest Argus 5 phục vụ giàn khoan Hakuryu-5. Bản quyền hình ảnh ASIA MARITIME TRANSPARENCY INITIATIVE
“Trước đây Việt Nam không kiện Trung Quốc hẳn nhiên có một số lý do tiềm ẩn”, theo theo nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn tại Pháp trong một bài viết gửi BBC.
“Trong khi tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines chỉ bộc phát mới đây, tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc về Hoàng Sa đã trên 100 năm, tranh chấp Trường Sa bắt đầu từ sau Thế chiến Thứ hai, cũng đã tròn 70 năm”.
“Từ lâu, Trung Quốc không nhìn nhận “có tranh chấp với Việt Nam” trên Biển Đông, do đó không chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán”.
“Tuy nhiên, phán quyết của Tòa Trọng tài PCA ngày 12/7/2016, bác bỏ yêu sách của Trung Quốc về đường chữ U chín đoạn và “quyền lịch sử” ở khu vực Biển Đông, đã không chỉ giải quyết những tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc tại khu vực Trường Sa mà còn mở cho Việt Nam nhiều cơ hội pháp lý (và ngoại giao) để giải quyết Hoàng Sa, vấn đề đã bị “đông lạnh” ít ra từ năm 1975 đến nay. Nhờ đó, Việt Nam có thể “ép” Trung Quốc ngồi vào bàn đàm phán với mình. Nếu Trung Quốc một mực từ chối “đàm phán”, lúc đó Việt Nam có thể nghĩ đến việc đi kiện,” ông Trương Nhân Tuấn phân tích.
“Bởi vì, việc “đi kiện” (trước Tòa án về Luật Biển) chỉ được một bên áp dụng khi mà mọi phương án “ngoại giao” (tức đàm phán) đều cạn kiệt. Luật Biển 1982 xác định rõ việc này ở các điều 281 và 282″.
Việt Nam ‘sẽ thắng’ nếu kiện?
Tàu Việt Nam và Trung Quốc ‘vờn nhau’ quanh hai lô Riji 03 và Riji 27. Bản quyền hình ảnh ASIA MARITIME TRANSPARENCY INITIATIVE
Ông James Kraska, Chủ tịch Trung tâm Stockton về Luật hàng hải Quốc tế thuộc Trường Hải Chiến của Mỹ, trả lời VOA rằng Trung Quốc đang hành động “bất hợp pháp” trên Biển Đông và vi phạm “nghiêm trọng” Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982)” mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên.
Ông James Kraska cũng cho rằng Việt Nam “nên kiện” Trung Quốc ra tòa quốc tế, và nhận định “Việt Nam hầu như là sẽ thắng”.
“Phán quyết cuối cùng sẽ do chủ tịch của tòa trọng tài quốc tế về luật biển và không có ai (nước nào) ngoài Trung Quốc tin rằng những gì mà Trung Quốc đang làm là hợp pháp,” ông James Kraska giải thích.
Ông Jonathan Odom – giáo sư luật quốc tế của Trung tâm Nghiên cứu An ninh Marshall của Mỹ thì viết trên Twitter nhận định rằng Hà Nội “có thể dùng hầu hết phần biện hộ” của Philippines trong vụ kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế năm 2016 là có khả năng giành chiến thắng về mặt pháp lý.
“Vấn đề chỉ là liệu Hà Nội có đủ ý chí chính trị để làm việc này hay không,” ông Jonathan Odom viết.
Nguồn: https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-49079948
*
(2) SỰ KIỆN BÃI TƯ CHÍNH: LIỆU VN CÓ THEO BIỆN PHÁP KIỆN?
Nguyễn Hiền
Sự kiện Bãi Tư Chính đã dẫn đến một câu hỏi lớn, liệu Việt Nam có nên khởi kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế? Báo Thanh Niên trong ngày 23.7 đăng tải bài viết với tiêu đề, “Cơ sở pháp lý cho khả năng Việt Nam khởi kiện”, trong đó dẫn lời Tiến sĩ luật Trần Thăng Long (Trường đại học Luật TP.HCM), người đã cho rằng: “Trong bối cảnh leo thang phức tạp như hiện nay, giải pháp khởi kiện nhằm áp dụng luật biển quốc tế cần được xem xét đến”.
Trang tin điện tử Motthegioi mạnh bạo hơn, khi khẳng định “Việt Nam chắc thắng nếu khởi kiện Trung Quốc về Biển Đông” trong bài viết ngày 24.7, dẫn lời nhiều chuyên gia có liên quan, trong đó có Giáo sư James Kraska (Trung tâm luật quốc tế Stockton, Đại học Hải chiến Mỹ), “Việt Nam nên nộp đơn kiện Trung Quốc theo Phụ lục VII (của UNCLOS – NV) và sẽ thắng”.
Tuy nhiên, liệu Trung Quốc sẽ chịu thực thi phán quyết, trong trường hợp Việt Nam thắng kiện? Tác giả Đỗ Thiện, trong bài viết trên Pháp luật Tp. HCM ngay 23.7 cho biết, sẽ có nhiều cách buộc Bắc Kinh tuân thủ phán quyết tòa án quốc tế, trong đó bao gồm, hình thành các liên minh pháp lý tiếp tục khởi kiện TQ khi thích hợp.
Cân nhắc vai trò pháp lý trong giải quyết tình hình Biển Đông là điều mới, nhất là khi quan điểm này được bàn tán xôi nổi trên các mặt báo chính thống như hiện nay. Thế nhưng, liệu Việt Nam có thể thực hiện?
Trong bài viết liên quan đến “Chiến lược của Việt Nam ở Biển Đông” của Giáo sư Carlyle A. Thayer trên Eastasiaforum, ông đã lý giải vì sao Việt Nam không chú tâm vào đòn bẩy pháp lý.
Một là, Việt Nam đang theo đuổi chiến lược “hợp tác và đấu tranh” với Trung Quốc. Điều này đòi hỏi phải thực hiện các hành động tăng cường các yêu sách của mình ở Biển Đông, như xây dựng và trang bị cho lực lượng hải quân và không quân để cho thấy sự răn đe quân sự đáng tin cậy đối với Trung Quốc.
Chẳng hạn, năm 2016, Việt Nam đã mở rộng đường băng trên đảo Trường Sa Lớn để tăng cường khả năng trinh sát hàng hải. Đáng kể hơn, Việt Nam đã triển khai các bệ phóng cho Tên lửa pháo binh tầm xa do Israel sản xuất. Và theo các nguồn tin của Trung Quốc, những người lính ếch (đặc công) Việt Nam hoạt động ở gần đảo nhân tạo của Trung Quốc.
Việt Nam cũng đã đẩy mạnh các hoạt động thăm dò dầu khí ở Biển Đông hợp tác với các công ty dầu khí của Mỹ, Tây Ban Nha và Ấn Độ.
Thứ hai, Việt Nam đã lôi kéo Trung Quốc vào Biển Đông ở cấp độ nhóm làm việc, cấp chính thức và trong các cuộc họp song phương cấp cao. Đồng thời, Việt Nam đã thẳng thắn hơn trong việc đưa ra các phản ứng ngoại giao và tuyên bố công khai chỉ trích các hành động của Trung Quốc trong khu vực.
Thứ ba, Việt Nam đã tích cực trong ASEAN trong việc cố gắng tạo ra một mặt trận thống nhất về tranh chấp hàng hải với Trung Quốc ở Biển Đông. Tuy nhiên, tiêu chuẩn đồng thuận của ASEAN đã dẫn đến những tuyên bố xuống nước. Ví dụ, tại hội nghị thượng đỉnh gần đây nhất của ASEAN tại Manila vào tháng 4.2017, phần Biển Đông trong Tuyên bố của Chủ tịch ASEAN đã giảm từ 8 xuống chỉ còn 2 đoạn. Tuyên bố lưu ý, “chúng tôi đã lưu ý các mối quan tâm của một số nhà lãnh đạo về những phát triển gần đây trong khu vực” chứ không phải là “mối quan tâm nghiêm trọng” như trong năm trước.
Người viết lưu ý rằng, Hà Nội vẫn được cho là đang thúc giục các quốc gia Đông Nam Á khác có lập trường mạnh mẽ hơn chống lại chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông liên quan đến hình thành COC, trong bối cảnh Philippines và Campuchia, các quốc gia thành viên ASEAN đã nhận viện trợ từ Trung Quốc, đang cố gắng xóa bỏ điều khoản ràng buộc về mặt pháp lý trong COC.
Thứ tư, các nhà lãnh đạo của Việt Nam đã tìm kiếm và nhận được các tuyên bố hỗ trợ từ Nhật Bản, Ấn Độ và Mỹ trên Biển Đông. Những tuyên bố này luôn luôn ủng hộ tự do hàng hải, hàng không, cũng như giải quyết tranh chấp hòa bình mà không đe dọa sử dụng vũ lực, theo luật pháp quốc tế, bao gồm sự tôn trọng hoàn toàn các quy trình ngoại giao và pháp lý.
Trở lại với vấn đề liên quan đến khả năng kiện. Bản thân Washington, quốc gia có tiếng nói trong duy trì an ninh và hòa bình tại Biển Đông cũng có nhiều tuyên bố kêu gọi các bên thực thi nghĩa vụ pháp lý, kiềm chế hành động có nguy cơ làm leo thang tình hình và dẫn đến xung đột quân sự. Dĩ nhiên, trong nhóm nghĩa vụ pháp lý có thể bao gồm cả khả năng tiến hành kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế như Manila đã từng tiến hành. Tuy nhiên, so với các liệu pháp khác mà Việt Nam theo đuổi, thì khả năng kiện là không cao.
Ông Carlyle A. Thayer cũng nhận định rằng, “Trung Quốc và Việt Nam đang theo đuổi ngoại giao song phương và đa phương, bao gồm cả thông qua các cuộc thảo luận về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông giữa các quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc (COC).” Và với tinh thần của bộ quy tắc ứng xử này, nó sẽ làm giảm nhiệt giữa Trung Quốc và Việt Nam ở Biển Đông, nơi phán quyết của Toà án không thể thực hiện được (vì thái độ của Trung Quốc).
Những nhận định nêu trên có vẻ phù hợp với diễn biến gần đây, khi Mỹ lên án hành vi bắt nạt và khiêu khích của Trung Quốc, thì ngay lập tức sau đó, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng nói tại một cuộc họp báo thường nhật hôm 22.7 tại Bắc Kinh, theo Reuters.
“Đây là một sự vu khống nỗ lực của Trung Quốc và các nước Đông Nam Á nhằm duy trì hòa bình và ổn định ở biển Nam Trung Hoa [Biển Đông] cũng như xử lý phù hợp các khác biệt”.
Điều đó cho thấy rằng, Bắc Kinh có thể sử dụng sự “thân thiện” đối với Bộ quy tắc ứng xử mới, và tăng cường các cuộc hội đàm ngoại giao để tiến tới rút tàu thăm dò địa chấn theo kế hoạch nhằm tránh một cuộc xung đột vượt quá giới hạn mà Bắc Kinh đề ra. Đưa Việt-Trung trở lại vào quy trình “pháp lý và ngoại giao”.
Đây là giải pháp “vừa đánh vừa đàm” mà Bắc Kinh có thể tiến hành, và đối với Hà Nội, đây cũng là cách thức mà Hà Nội có thể theo nhằm giải nhiệt tình hình. Bởi, dù Bộ quy tắc ứng xử cũng chỉ là bộ “hướng dẫn hành vi của các bên và thúc đẩy hợp tác hàng hải ở Biển Đông” hơn là “công cụ để giải quyết tranh chấp lãnh thổ”, tuy nhiên, nếu Bộ quy tắc này có cam kết không quân sự hóa trong vùng Biển Đông thì đó cũng là hướng đi mang tính chế tài, đảm bảo giám sát và kiểm soát được tình hình bồi lấp đảo như hiện tại.
Tuy nhiên, các cuộc xung đột vẫn sẽ tái diễn trong tương lai, và mang tính lâu dài, chừng nào tham vọng Biển Đông hóa vẫn nằm trong tư duy lãnh đạo Trung Quốc, đặc biệt là tham vọng gầy dựng sức mạnh cường quốc từ biển của Tập Cận Bình.
Hà Nội vẫn trong thế khó xử, khi Bắc Kinh giàu-mạnh và đòi quyền “siêu cường’. Một nghịch lý giữa hai quốc gia cộng sản.
N.H.
VNTB gửi BVN
*
(3) ‘VIỆT NAM NÊN KIỆN TRUNG QUỐC GIỐNG NHƯ PHILIPPINES’
26/07/2019
Ngọc Lễ (VOA)
Trung Quốc đã từng xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam và đối đầu với lực lượng chấp pháp của Việt Nam hồi năm 2014
Để ngăn chặn Trung Quốc tiếp tục có các hành vi xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam trên Biển Đông về lâu dài, chính phủ Việt Nam nên có hành động pháp lý đối với Trung Quốc như là Philippines từng làm hồi năm 2013, một chuyên gia của Mỹ nhận định với VOA.
Kể từ đầu tháng 7/2019, các tàu cảnh sát biển Việt Nam đã đối đầu với một tàu thăm dò của Cục Địa chất Trung Quốc với sự hộ tống của lực lượng tuần dương xung quanh Bãi Tư Chính (thuộc quần đảo Trường Sa) vốn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của UNCLOS (Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển).
Mặc dù Hà Nội đã phản đối Bắc Kinh qua nhiều kênh và yêu cầu Bắc Kinh ‘rút tàu thăm dò ngay lập tức’ nhưng cho đến nay tàu thăm dò Trung Quốc vẫn chưa rời đi mặc dù Bắc Kinh cho đến nay ‘không xác nhận sự hiện diện tàu của họ trong khu vực’, theo AFP.
Hồi năm 2014, một giàn khoan khổng lồ của Trung Quốc cũng đã tiến vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam xung quanh đảo Tri Tôn thuộc Quần đảo Hoàng Sa và chỉ rút đi sau gần ba tháng sau khi Việt Nam có những hình thức phản đối quyết liệt qua các kênh ngoại giao, truyền thông và trên thực địa.
‘Giới hạn đỏ’
Trả lời VOA bên lề Hội nghị Biển Đông thường niên lần thứ 9 do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) tổ chức ở Washington D.C. hôm 24/7 về làm sao Việt Nam có thể ngăn ngừa những vụ xâm phạm tương tự như thế trong tương lai, bà Bonnie Glaser, Giám đốc Chương trình Sức mạnh Trung Quốc tại CSIS, nói bà tin rằng ‘khởi sự kiện Trung Quốc sẽ là một bước đi rất hay’.
“Đó sẽ là một bước đi rất quan trọng và tôi sẽ không đánh giá thấp tác động của nó (đối với Trung Quốc)”, bà nói.
Mặc dù Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) được thành lập trong khuôn khổ UNCLOS không thể phán quyết về tranh chấp chủ quyền hay phân định ranh giới trên biển, nhưng họ có thể phán quyết liệu hành động của Trung Quốc có xâm phạm chủ quyền và quyền tài phán của một quốc gia ven biển nào đó hay không. Đó là cách mà Manila chọn để nêu vụ kiện hồi năm 2013 và cuối cùng Tòa ra phán quyết có lợi cho họ.
“Bên cạnh đó Việt Nam nên tăng cường xây dựng năng lực trên biển để làm tăng khả năng răn đe Trung Quốc”, bà Glaser nói thêm.
Tuy nhiên, bà cũng lưu ý rằng Việt Nam ‘không thể xây dựng một hạm đội ngang hàng với Trung Quốc’ nên công cụ chủ yếu của Việt Nam là ‘ý chí chính trị để cho Trung Quốc biết rằng Việt Nam sẵn sàng sử dụng công cụ pháp lý để bảo vệ lợi ích của mình’.
Đó cũng là con đường mà Hà Nội nên làm để giải tỏa thế bế tắc hiện nay xung quanh Bãi Tư Chính, bà Glaser khuyên.
“Việt Nam nên làm rõ với Trung Quốc, cho dù là công khai hay kín đáo, rằng nếu họ không rút tàu thì Việt Nam sẽ nghiêm túc cân nhắc kiện Trung Quốc ra tòa”, bà nói và cho rằng Hà Nội nên nói rõ với Bắc Kinh ‘đâu là giới hạn đỏ’ mà Bắc Kinh không thể vượt qua.
“Bởi vì khu vực này rất rõ ràng là nằm trong vùng đặc quyền Kinh tế của Việt Nam”, bà giải thích. “Tôi nghĩ rằng Việt Nam hoàn toàn có thể thắng kiện. Đó là điều mà tôi nghe từ các luật sư về hàng hải”.
Bà nói rằng mặc dù Việt Nam đã phản ứng với Trung Quốc cả về mặt ngoại giao và trên thực địa và dù Mỹ có lên tiếng bằng những ngôn từ mạnh mẽ nhưng điều đó chưa đủ để khiến Trung Quốc rút tàu đi.
Tuy nhiên, hạn chế của việc kiện ra PCA là tòa án này không có cơ chế thực thi phán quyết và Trung Quốc có quyền từ chối tham gia vào vụ kiện như cách họ đã từng làm với vụ kiện của Philippines. Hơn nữa, sau khi PCA ra phán quyết trao chiến thắng cho Manila hồi năm 2016, Bắc Kinh đã tìm đủ cách lung lạc chính phủ của Tổng thống Rodrigo Duterte đến nỗi ông Duterte gần như bỏ lơ phán quyết này.
‘Bắc Kinh không thể ngồi yên’
Khi được hỏi về tính toán của Bắc Kinh khi tung tàu thăm dò vào quấy rối tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào lúc này, bà Glaser cho rằng giới lãnh đạo Bắc Kinh ‘nghĩ rằng họ không thể ngồi yên không làm gì cả trước dư luận trong nước khi thấy rằng lợi ích của họ bị đe dọa’.
Bà Glaser chỉ ra hành động của Việt Nam hợp tác với công ty dầu khí Rosneft của Nga khoan các giếng dầu mới ở Bãi Tư Chính mà Trung Quốc cũng tuyên bố có ‘chủ quyền lịch sử’ trong đường chín đoạn (quyền này đã bị PCA bác bỏ) ‘đã khiến Trung Quốc tức tối’.
“Khi mà COC (Bộ Quy tắc Ứng xử) đang được đàm phán thì không bên nào trong khu vực có những bước đi mới nhất là trong việc khai thác dầu”, bà phân tích. “Do đó tôi nghĩ rằng họ (Bắc Kinh) đang tìm cách tỏ dấu hiệu rằng họ không thể bị lợi dụng’.
Bà Glaser nói rằng những nhân tố đằng sau hành động của Bắc Kinh là ‘Việt Nam không có hiệp ước phòng thủ tương hỗ với Mỹ’ và ‘đánh giá rằng Mỹ cũng không thể làm gì được’.
“Có lẽ họ đánh giá thấp phản ứng của người dân Việt Nam vốn từng bị kích động từ hành động của họ mà lẽ ra họ không nên làm”, bà nói với ý nhắc đến các cuộc bạo loạn của một số người dân Việt Nam hồi năm 2014 để phản đối sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc.
“Họ cũng có lẽ phần nào cho rằng Mỹ đang bị phân tâm với tình hình Trung Đông với căng thẳng dâng cao giữa Mỹ với Iran”, bà nói thêm.
Theo nhà phân tích này, hợp tác chặt chẽ hơn với Mỹ về quân sự là điều Việt Nam nên tính tới nhưng bà không cho rằng Việt Nam nên cân nhắc liên minh quân sự với Mỹ như kiểu của Philippines.
Trả lời câu hỏi có phải Mỹ đang có bước tiến mới về lập trường trên Biển Đông vốn lâu nay vẫn là ‘không chọn phe trong tranh chấp chủ quyền’, chuyên gia cao cấp của CSIS này nói rằng ‘Mỹ không từ bỏ lập trường trung lập trên vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông’.
Bộ Ngoại giao Mỹ đã có những lời lẽ mạnh mẽ lên án hành động của Trung Quốc ở bãi Tư Chính là ‘bắt nạt’, ‘khiêu khích’ và ‘đe dọa an ninh năng lượng khu vực’.
“Những gì mà tôi nhìn thấy Mỹ đang làm là mở rộng phạm vi tuyên bố về lợi ích của Mỹ trong khu vực”, bà phân tích.
“Dưới chính quyền Barack Obama và trong giai đoạn đầu của chính quyền Donald Trump chúng ta có thể thấy sự nhấn mạnh vào tự do hàng hải”, bà nói thêm và cho rằng đây luôn là ưu tiên hàng đầu của Mỹ.
Điều mà chính quyền Trump giờ đây đang làm là ‘mở rộng phạm vi định nghĩa về lợi ích của Mỹ để nhấn mạnh việc bảo vệ những quyền hợp pháp của các nước trên Biển Đông bất kể nước lớn hay nước nhỏ’.
Bà Glaser đánh giá rằng đây là một diễn tiến quan trọng đối với các nước như Việt Nam và Philippines bởi vì họ có lợi ích về năng lượng và nguồn lợi thủy sản trong phạm vi 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế của họ và cũng là một sự ‘mở rộng quan trọng trong lợi ích của Mỹ’.
“Đây là một thách thức trực tiếp đối với tuyên bố của Trung Quốc rằng các nước có tranh chấp phải hợp tác cùng khai thác với Trung Quốc trên Biển Đông và bất cứ sự khai thác đơn phương nào cũng cần có sự đồng ý của Trung Quốc. Điều này [sự ép buộc của Trung Quốc] đã diễn ra nhiều năm rồi”, bà Glaser nói.
N.L.
Nguồn: https://www.voatiengviet.com/a/việt-nam-nên-kiện-trung-quốc-giống-như-phillippines-/5015718.html
*
(4) BÃI TƯ CHÍNH: VIỆT NAM SẼ KHÔNG BAO GIỜ KIỆN TRUNG QUỐC
Giữa lúc sự kiện Trung Quốc dùng tàu Hải Dương Địa Chất 08 xâm nhập trái phép khu vực đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, thì báo chí lề đảng đồng loạt đưa tin “Việt Nam chắc thắng nếu khởi kiện Trung Quốc ra toà quốc tế”. Đây là một cách hướng dẫn tâm lý dư luận hãy tin vào đường lối lãnh đạo ngoại giao “khéo léo, kiên trì, mềm mỏng” của đảng CSVN. Hãy yên tâm chăm chỉ lao động đóng thuế, mọi việc “đã có đảng và nhà nước lo”.
Thực tế thì sao?
Báo Vietnamnet chạy tít “Nhịn để được yên làm giảm sức mạnh của dân tộc Việt Nam”, sau đó thấy chủ trương “nhịn” mãi thành “nhục” lộ rõ quá nên tiêu đề đã được đổi thành “Huy động toàn dân để bảo vệ chủ quyền và phẩm giá dân tộc”.
Huy động kiểu gì khi trong quá khứ, năm 2014, giữa lúc nhân dân biểu tình chống giàn khoan HD981 xâm lấn vùng biển Việt Nam, sau khi thoả thuận xong với quan thầy Bắc Kinh, nhà cầm quyền đã ra lệnh an ninh, côn đồ dán nhãn các cuộc biểu tình ôn hoà là bạo loạn. Thông qua đó, toàn bộ các cuộc biểu tình chống Trung Quốc không theo định hướng đều bị đàn áp khốc liệt.
Phẩm giá dân tộc Việt Nam ai huỷ hoại?
Chính băng đảng Cộng sản chứ ai vào đây?
Đất nước đang bị xâm lấn, bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân toe toét hớn hở bắt tay bọn cướp.
Khi căng thẳng đang leo thang thì Tổng Tịch Nguyễn Phú Trọng lại kêu gọi “đừng để lòng yêu nước bị lợi dụng, kích động”. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thì đi khen tặng doanh nghiệp, và không có bất kỳ phát ngôn nào liên quan đến vận mệnh quốc gia.
Ngoài biển tàu Trung Quốc đang lởn vởn gây hấn tại lô khai thác 06.1, Trưởng Ban Tuyên giáo Võ Văn Thưởng hớn hở đi chầu để tăng cường mối tin cậy chính trị giữa hai đảng.
Giữ đảng chứ không giữ đảo – là chủ trương xuyên suốt xưa giờ. Vậy tại sao ý kiến của các chuyên gia về chuyện kiện tụng lại được đẩy mạnh lúc này?
Là để gạt dân, để phỉnh dân, để dân yên tâm ăn chơi nhảy múa đừng có đi biểu tình.
Còn nhớ năm 2014, nhà cầm quyền CS Việt Nam cũng đã công bố thông tin về việc chuẩn bị sẵn sàng hồ sơ khởi kiện Trung Quốc ra toà án quốc tế. Nhưng đến nay, tiến trình này đến đâu rồi chỉ có nội bộ đảng biết. Và trong năm 2017-2018, CSVN đã phải nhượng bộ, yêu cầu Repsol của Tây Ban Nha dừng khai thác ngoài khơi dưới áp lực của Trung Quốc.
Có bao nhiêu người dân Việt Nam biết đến tin tức này?
Đảng CSVN sẽ không bao giờ kiện Trung Quốc, bởi lý thuyết quan hệ “anh-em” xưa nay được an ninh vận dụng trong các buổi làm việc là “anh em trong nhà không ai kiện nhau”, là “kiên trì giữ vững lập trường hoà bình, ổn định”.
Trong phát ngôn mới nhất ngày 25/7/2019, bà Lê Thị Thu Hằng, người phát ngôn BNG Việt Nam một lần nữa lặp lại những gì đã nói trong suốt nhiều năm qua giữa lúc tình hình tại bãi Tư Chính đang căng thẳng. Lần này, Việt Nam chủ động mời gọi quốc tế cùng tham gia bảo vệ hoà bình trên biển Đông.
Như vậy có thể thấy, đưa Trung Quốc ra toà án quốc tế không phải là giải pháp mà đảng CSVN lựa chọn.
Tư Chính – chỉ là một phần bề nổi của những gì đang diễn ra trên biển Đông dưới con mắt quan sát của quốc tế. Vấn đề lớn hơn là sự kiện giằng co này sẽ còn kéo dài trước thềm đại hội đảng. Khả năng sắp tới Bắc Kinh sẽ gia tăng sức ép, đưa giàn khoan đến khu vực này để nắm đầu Ba Đình nhằm quản lý nhân sự trước kỳ đại hội là chuyện có thể dự đoán được trong nay mai.
Chủ quyền và phẩm giá của dân tộc Việt Nam là thứ mà đảng Cộng sản dùng để đổi chác nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo của mình.
25.07.2019
M.N.
Nguồn: http://danlambaovn.blogspot.com/2019/07/bai-tu-chinh-viet-nam-se-khong-bao-gio.html