Lê Hồng Hiệp
Ngày 3 tháng 12 năm 2024, một tòa phúc thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh đã giữ nguyên bản án tử hình của tòa sơ thẩm đối với bà Trương Mỹ Lan, cổ đông chính của Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) và cựu chủ tịch tập đoàn phát triển bất động sản Vạn Thịnh Phát (VTP). Trong số ba tội danh chính, tội tham ô tài sản của SCB là nguyên nhân chính dẫn đến án tử hình đối với bà Lan. Trên thực tế, bà Lan là chủ doanh nghiệp tư nhân đầu tiên tại Việt Nam bị tuyên án tử hình về tội tham ô tài sản.
Trong gần một thập niên, bà Lan đã coi SCB như một “con heo đất” của mình, thường xuyên rút tiền bất hợp pháp khỏi ngân hàng để đầu cơ vào thị trường bất động sản. Hồ sơ tòa án cho thấy, từ tháng 10/2018 đến tháng 10/2022, bà Lan đã chỉ đạo lập 2.527 hồ sơ cho vay khống để rút 1,066 triệu tỷ đồng (44,4 tỷ đô la Mỹ) khỏi ngân hàng. Đến tháng 10/2022 khi bị bắt, bà Lan và đồng phạm vẫn còn nợ ngân hàng 677,28 nghìn tỷ đồng (28,2 tỷ đô la Mỹ), tất cả đều được phân loại là nợ xấu. Một phán quyết của tòa sơ thẩm vào tháng 4/2024 tuyên rằng hành vi của bà Lan đã gây ra thiệt hại hơn 677 nghìn tỷ đồng (27 tỷ đô la Mỹ) cho SCB. Tòa phúc thẩm gần đây đã giữ nguyên yêu cầu bà Lan phải bồi thường cho SCB số tiền 673,8 nghìn tỷ đồng (26,52 tỷ đô la Mỹ). Cần lưu ý rằng để ngăn ngân hàng này sụp đổ và gây ra tác động dây chuyền cho toàn bộ hệ thống ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) được cho là đã bơm 24 tỷ đô la Mỹ vào SCB tính đến tháng 4 năm 2024.
Về mặt pháp lý, án tử hình đối với Lan là hợp lý vì mức độ nghiêm trọng của hành vi tham ô. Theo Bộ luật Hình sự năm 2015, chỉ cần tham ô tài sản trị giá 1 tỷ đồng là đã có thể dẫn đến án tử hình. Bản án tử hình của bà Lan cũng tạo động lực mạnh mẽ cho bà và gia đình tìm cách hoàn trả ít nhất ba phần tư tài sản tham ô cho ngân hàng. Theo luật, nếu nỗ lực này thành công, bà Lan có thể thoát được án tử hình.
Từ khía cạnh quản lý, bản án tử hình đối với bà Lan cũng gửi đi một thông điệp mạnh mẽ đến các chủ ngân hàng tư nhân về hậu quả khủng khiếp mà họ có thể phải đối mặt nếu thao túng ngân hàng của mình để trục lợi cá nhân. Điều này đặc biệt quan trọng nếu xét việc những nỗ lực của NHNN nhằm giảm tình trạng sở hữu chéo giữa các tập đoàn và ngân hàng tư nhân vẫn chưa mang lại kết quả mong muốn.
Sau khi Việt Nam tự do hóa lĩnh vực ngân hàng vào năm 1990, số lượng ngân hàng tư nhân trong nước đã tăng lên đáng kể. Vào cuối những năm 1980, lĩnh vực ngân hàng vẫn do bốn ngân hàng quốc doanh thống trị, không có ngân hàng tư nhân nào hoạt động. Tuy nhiên, đến năm 1996, đã có 52 ngân hàng thương mại cổ phần có sự tham gia của các nhà đầu tư tư nhân, nhiều người trong số họ trở về từ Liên Xô cũ và Đông Âu để thành lập các ngân hàng mới hoặc tiếp quản các ngân hàng hiện hữu. Mục tiêu của họ không chỉ là tham gia vào một ngành kinh doanh béo bở mà còn nhằm tiếp cận các khoản tín dụng rẻ từ các ngân hàng mà họ kiểm soát để tài trợ cho các doanh nghiệp khác của mình. Trong một số trường hợp, những nhà đầu tư này đã sử dụng “quân xanh” để vay vốn từ các ngân hàng mục tiêu, sau đó sử dụng chính số tiền đã vay để quay lại mua cổ phần, qua đó giành quyền kiểm soát chính ngân hàng đó.
Hiện nay, một số lượng lớn các ngân hàng tư nhân tại Việt Nam vẫn nằm dưới sự kiểm soát của một số ít chủ sở hữu, những người cũng sở hữu các doanh nghiệp khác. Các chủ sở hữu ngân hàng này tiếp tục hướng dòng tiền từ các ngân hàng mà họ kiểm soát cho các thực thể liên quan của họ vay. Điều này gây ra rủi ro cố hữu cho hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Để ứng phó, Quốc hội đã sửa đổi Luật các Tổ chức Tín dụng vào tháng 1 năm 2024, đưa ra các quy định chặt chẽ hơn nhằm giảm thiểu những rủi ro này. Luật giới hạn cổ đông cá nhân chỉ được sở hữu tối đa 5% vốn điều lệ của ngân hàng, trong khi cổ đông tổ chức bị giới hạn ở mức 10%. Đồng thời, cổ đông và những cá nhân hoặc thực thể có liên quan của họ bị giới hạn ở mức sở hữu kết hợp tối đa là 15%. Luật cũng yêu cầu các cổ đông sở hữu 1% trở lên vốn điều lệ của ngân hàng phải công bố thông tin cá nhân của họ và tỷ lệ cổ phần do những người có liên quan của họ nắm giữ.
Các quy định chặt chẽ hơn về hoạt động cho vay cũng có hiệu lực từ tháng 7 năm 2024. Tới năm 2029, tổng dư nợ của một khách hàng không được vượt quá 10% vốn chủ sở hữu của ngân hàng và tổng các khoản cho vay cho một khách hàng và các bên liên quan của họ không được vượt quá 15% vốn chủ sở hữu của ngân hàng đó.
Tuy nhiên, việc thực thi luật là hết sức khó khăn vì chủ sở hữu ngân hàng vẫn có thể sử dụng các bên được ủy quyền hay mượn danh — hoặc thậm chí là công ty vỏ bọc thành lập ở nước ngoài — để nắm giữ cổ phần thay cho họ, khiến các cơ quan chức năng khó có thể xác định tỷ lệ sở hữu thực sự của họ trong ngân hàng. Họ cũng có thể sử dụng các cấu trúc mượn danh tương tự để vay vốn từ ngân hàng của mình cho các công ty sân sau, qua đó lách các quy định về hạn chế cho vay đối với các bên liên quan.
Vấn đề sở hữu chéo và cho vay cho bên liên quan có thể được coi là một “căn bệnh mãn tính” trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hậu quả, như đã thấy trong trường hợp của SCB, có thể là rất nghiêm trọng và tốn kém, có nguy cơ làm rung chuyển toàn bộ hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, NHNN có không nhiều lựa chọn vì các chủ sở hữu ngân hàng không muốn từ bỏ quyền kiểm soát các ngân hàng của mình, trong khi các nhà quản lý có thể lo ngại rằng các biện pháp mạnh tay sẽ có thể phản tác dụng và làm mất ổn định nền kinh tế. Lựa chọn tốt nhất của NHNN tại thời điểm hiện tại là cảnh báo các chủ sở hữu ngân hàng không được vượt quá các “lằn ranh đỏ”. Do đó, bản án tử hình được đề xuất đối với bà Lan có thể có vai trò răn đe trên khía cạnh này.
Tuy nhiên, việc điều trị bệnh mãn tính cho một bệnh nhân mà chỉ dựa vào việc bệnh nhân sẵn lòng lắng nghe lời khuyên của bác sĩ mà không giải quyết nguyên nhân gốc rễ của căn bệnh thì khó có thể coi là một giải pháp hiệu quả và lâu dài. Các cải cách trong lĩnh vực ngân hàng của Hàn Quốc, nước cũng phải đối mặt với các vấn đề tương tự về sở hữu chéo giữa các chaebol và các ngân hàng, có thể mang lại những bài học hữu ích cho các nhà quản lý của NHNN. Sự xuất hiện của một bê bối chấn động khác tương tự như SCB có thể chỉ là vấn đề thời gian, trừ khi NHNN có đủ ý chí chính trị và phương tiện hiệu quả để hạn chế tối đa vấn đề sở hữu chéo cùng những hậu quả tai hại của nó trong khối ngân hàng tư nhân.
L.H.H.
Một phiên bản tiếng Anh của bài viết đã được xuất bản trên chuyên trang bình luận Fulcrum.sg.
Nguồn: nghiencuuquocte.org