Làm sao phòng, chống buôn người? (Bài 2)

VNTB

clip_image002

Ngày 19 tháng 7, 2022, Bộ Ngoại giao (BNG) Hoa Kỳ xếp Việt Nam vào Hạng 3, tệ hại nhất về nạn buôn người, làm ảnh hưởng đến thể diện quốc gia và có thể đến các chương trình viện trợ của Hoa Kỳ cho Việt Nam. Nạn buôn người mang tính hệ thống làm căn cứ cho việc xếp hạng là hình thức buôn người lao động lồng trong chương trình xuất khẩu lao động của nhà nước.

BNG Hoa Kỳ phân hạng các quốc gia dựa vào đánh giá trong 4 lĩnh vực: Truy Tố (Prosecution), Bảo Vệ (Protection), Phòng Ngừa (Prevention) và Hợp Tác (Partnership), mà họ gọi tắt là 4 chữ P. Dưới đây là phần đánh giá của Hoa Kỳ về hoạt động truy tố của Việt Nam trong năm 2021.

Đáng chú ý là BNG Hoa Kỳ cho rằng về các hồ sơ mà nhà nước Việt Nam cho biết đã truy tố thì lại không đủ thông tin để kiểm chứng là những hồ sơ này có đúng thực là hồ sơ buôn người hay không. Ngoài ra, theo thông tin của chính nhà nước Việt Nam, có vẻ như không có hoặc có rất ít hồ sơ liên quan đến buôn người trong chương trình xuất khẩu lao động. Trong khi đó, tổ chức BPSOS cùng với Báo Cáo Viên Đặc Biệt của LHQ về Nạn Buôn Người đã lên tiếng về nhiều vụ buôn người lao động thông qua chương trình này của nhà nước Việt Nam.

Loạt bài viết về phòng, chống buôn người này là sản phẩm của sự hợp tác giữa Việt Nam Thời Báo và tổ chức BPSOS.

******

Báo Cáo Buôn Người 2022 (tiếp theo)

HOẠT ĐỘNG TRUY TỐ

Chính phủ đã giảm các nỗ lực thực thi pháp luật, bao gồm cả việc không truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc hành chính đối với hai quan chức bị cáo buộc đồng lõa với tội phạm lao động cưỡng bức. Điều 150 của bộ luật hình sự đã hình sự hóa tội phạm buôn bán lao động và mua bán dâm người lớn và quy định hình phạt tù từ 5 năm đến 10 năm và phạt tiền từ 20 triệu đến 100 triệu đồng (879 đến 4,390 đô la).

Điều 151 đã hình sự hóa tội phạm buôn bán lao động và buôn bán tình dục trẻ em dưới 16 tuổi và quy định hình phạt từ 7 đến 12 năm tù và phạt tiền từ 50 triệu đến 200 triệu đồng (2.200 đến 8.790 đô la). Các hình phạt này đủ nghiêm ngặt và đối với tội buôn bán tình dục, tương xứng với các tội nghiêm trọng khác, chẳng hạn như hiếp dâm.

Không phù hợp với luật pháp quốc tế, Điều 150 áp dụng đối với trẻ em từ 16 đến 17 tuổi và đòi hỏi phải có sự biểu dương vũ lực, lừa đảo hoặc ép buộc để cấu thành tội phạm buôn bán tình dục; do đó nó không hình sự hóa tất cả các hình thức buôn bán tình dục trẻ em.

Các nhà quan sát xã hội dân sự đã báo cáo điều này dẫn đến sự nhầm lẫn giữa các tòa án về cách xử lý các vụ việc liên quan đến trẻ em 16 và 17 tuổi – đặc biệt là đối với các vụ án liên quan đến buôn bán lao động – và khiếm khuyết này đã loại trừ các phương pháp hay nhất để bảo vệ trẻ em trong những trường hợp như vậy.

Trong nỗ lực giải quyết mối lo này, vào năm 2021, Bộ Công an đã ban hành chính sách mới quy định các thủ tục đặt trọng tâm lên việc bảo vệ trẻ em để điều tra tội phạm mua bán người dưới 18 tuổi; đây là hướng dẫn đầu tiên do chính phủ ban hành đối với việc thực thi pháp luật để xử lý các trường hợp buôn bán người từ 16 đến 17 tuổi như các trường hợp buôn bán trẻ em. Các nhà chức trách không báo cáo số liệu thống kê về việc thực hiện luật này vào năm 2021.

Việt Nam cũng duy trì một luật chống buôn người năm 2011 rộng rãi, tập trung chủ yếu vào các biện pháp phòng ngừa; bao gồm một số điều khoản được cho là mâu thuẫn với các định nghĩa được nêu trong bộ luật hình sự. Theo đại diện của các tổ chức phi chính phủ, một số quan chức do đó không chắc liệu có nên áp dụng luật năm 2011 hay các điều khoản của bộ luật hình sự khi xử lý các vụ buôn người hay không.

Chính phủ đã hoàn thành việc xem xét luật này và ban hành một kế hoạch hành động gồm sáu bước để giải quyết những khiếm khuyết này, cùng với các thiếu sót trong phạm vi bảo hiểm đối với trẻ em 16 và 17 tuổi, trước khi có thể hoàn tất những sửa đổi dự kiến vào năm 2023.

Chính phủ cũng đã ban hành quyết định chính thức phê duyệt Chương trình đầu tiên của Việt Nam về Bảo vệ trẻ em qua trực tuyến cho giai đoạn 2021-2025, trong đó có hướng dẫn cụ thể về việc khởi tố. Không có thêm thông tin nào về nội dung của các sáng kiến này hoặc tình trạng của chúng vào cuối kỳ báo cáo.

Chính phủ đã điều tra nhiều kẻ buôn người bị cáo buộc vào năm 2021 hơn năm trước nhưng truy tố và kết tội ít cá nhân hơn so với năm trước. Bất chấp những thách thức liên quan đến đại dịch, chính phủ một lần nữa cung cấp dữ liệu thực thi pháp luật tách biệt theo loại buôn người.

Theo Bộ Công an, các nhà chức trách đã điều tra 149 kẻ tình nghi buôn người trong 77 trường hợp vào năm 2021 (so với 144 kẻ tình nghi buôn người được điều tra trong 110 trường hợp vào năm 2020). Con số này bao gồm 7 cuộc điều tra buôn bán tình dục, 3 cuộc điều tra cưỡng bức lao động và 67 cuộc điều tra về hành vi bóc lột không xác định “nhằm mục đích chuyển hoặc nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác” theo quy định tại các Điều 150 và 151 của Bộ luật hình sự (không tách biệt vào năm 2020).

Các nhà chức trách đã không cung cấp đầy đủ thông tin để xác định xem 67 trường hợp nói trên có đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về buôn người hay không.

Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đã đệ trình 98 trường hợp liên quan đến 177 kẻ bị cáo buộc tội buôn người để truy tố vào năm 2021, so với 106 trường hợp liên quan đến 180 nghi phạm được đệ trình vào năm 2020.

Trong đó, 68 trường hợp liên quan đến 120 nghi phạm đã được chấp nhận để truy tố, bao gồm 44 trường hợp theo Điều 150 và 24 trường hợp theo Điều 151; con số này đã giảm từ 102 vụ — 65 theo Điều 150 và 37 theo Điều 151 — liên quan đến 161 nghi phạm vào năm 2020. 68 vụ truy tố được chấp nhận bao gồm 14 vụ buôn bán tình dục, ba vụ cưỡng bức lao động và 51 vụ bóc lột không xác định; 3 vụ liên quan đến tội phạm buôn người trong nước và 65 vụ có tính chất xuyên quốc gia (so với 79 vụ buôn bán tình dục, 18 vụ cưỡng bức lao động và 5 vụ bóc lột không xác định, với 5 vụ trong nước và 97 vụ xuyên quốc gia vào năm 2020).

Các tòa án cuối cùng đã thụ lý 66 vụ với 132 bị cáo buôn người để truy tố đầy đủ nhưng chỉ khởi tố 49 vụ liên quan đến 94 bị cáo (so với thụ lý 107 vụ liên quan đến 175 bị cáo buôn người, dẫn đến 84 vụ truy tố 136 bị cáo, vào năm 2020). Trong số 49 vụ đã truy tố, các Tòa án đã xét xử 27 vụ với 51 bị cáo theo Điều 150 và 22 vụ với 43 bị cáo theo Điều 151 (so với năm 2020 là 60 vụ với 95 bị cáo và 24 vụ với 136 bị cáo).

Việt Nam duy trì tỷ lệ kết án cao và tiếp tục áp dụng các mức án nghiêm khắc đối với những kẻ buôn người bị kết án. Hệ thống tòa án đã kết án tất cả 94 cá nhân (so với 136 vào năm 2020) theo Điều 150 và 151. Mức án dành cho những kẻ buôn người bị kết án từ dưới ba năm đến tù chung thân theo cả hai Điều 150 và 151 (so với ba năm đến 20 năm tù năm 2020).

(Còn tiếp)

VNTB gửi BVN

This entry was posted in nạn buôn người. Bookmark the permalink.