Nói lại cho rõ về đê bao – bờ bao

Tôi đọc bài viết “Đê bao đồng bằng sông Cửu Long không sai lầm vĩ đại như tác giả đảng xanh đã phán” của nhà báo Lê Phú Khải. Ông là nhà báo, nhà văn lăn lộn nhiều năm với thực tế, có nguồn tư liệu rất phong phú để viết những cuốn sách và bài báo về con người và cuộc sống của người dân Nam bộ.

Tôi cũng đã đọc nhiều ý kiến phản biện, tôn trọng lắng nghe ý kiến đa chiều, xin nói rõ thêm, những vấn đề sau đây:

Tháng 10 năm 1996, sau gần chục năm làm việc ở nước ngoài, tôi về nước làm việc, được Bộ NN & PTNT giao cho làm chủ nhiệm dự án kiểm soát lũ đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Việc đầu tiên, tôi tập trung nghiên cứu Quyết định 99/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 9/2/1996. Đây là chủ trương đúng đắn được sự đồng thuận cao của các cấp, các ngành và nguyện vọng của người dân. Để cập nhật các thông tin tư liệu, đi sâu tiến công vào vùng lũ, cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung các tác động từ phía thượng lưu và ảnh hưởng của xâm nhập mặn trong dự án Quy hoạch kiểm soát lũ đồng bằng sông Cửu Long.

Trước đó, tỉnh Kiên Giang nhiều đất đai bị bỏ hoang đã cho công ty Kiên Tài (Đài Loan) thuê 40 nghìn ha đất rừng tràm. Khi làm quy hoạch, bị vướng hướng thoát lũ do công ty làm các bờ bao khép kín. Nhùng nhằng rất lâu vì phía Việt Nam muốn thu lại đất nhưng đền bù không thỏa đáng. Tôi nhớ, hồi đó ông Võ Văn Kiệt phone gọi tôi ra Hà Nội thảo luận tại Văn phòng chính phủ. Cuộc họp chỉ có 4 người ông Võ Văn Kiệt, Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Anh Vũ Đức Đam trợ lý của ông Kiệt. Trước khi ra Hà Nội, tôi đã thảo luận với chuyên gia của Phân viện Quy hoạch thiết kế nông nghiệp và Phân viện điều tra quy hoạch rừng để thống nhất phương án hợp lý, hợp tình trình Chính phủ. Sau đó, công ty Kiên Tài đã trao trả lại đất cho tỉnh Kiên Giang.

Quy hoạch kiểm soát lũ đồng bằng sông Cửu Long được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 1999. Trong quy hoạch nói rõ chỉ tập trung phát triển 2 vụ lúa Đông Xuân và Hè Thu, không khuyến khích làm vụ 3 vì nhiều rủi ro do lũ về và đất cũng như người nếu khai thác quanh năm sẽ dễ kiệt quệ, làm đê bao sẽ không lấy được phù sa, vệ sinh đồng ruộng vv…

Nói cho công bằng, lúa vụ 3 (còn gọi thu Đông) cũng là phát kiến của người dân từ thập niên 80 nhưng chỉ làm ở những nơi chủ động được công tác thủy nông. Nhờ Quyết định 99TTg và dự án quy hoạch kiểm soát lũ, hệ thống thủy lợi, giao thông được hình thành đã làm thay đổi to lớn bộ mặt kinh tế của đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt vùng tứ giác Long Xuyên.

ĐBSCL chỉ chiếm 5% diện tích lưu vực sông Mê Công nhưng hàng năm phải hứng chịu toàn bộ lượng nước lũ hơn 400 tỷ m3 từ thượng lưu đổ về để thoát ra biển Đông và một phần ra biển Tây. Lũ ở ĐBSCL ngoài việc mang lại nguồn lợi phù sa, thuỷ sản, vệ sinh đồng ruộng, nhưng gặp những năm lũ lớn như 1996, 2000 đã gây ra tổn thất hàng trăm nhân mạng và phá huỷ các cơ sở hạ tầng. Để kiểm soát lũ ĐBSCL không thể tách rời với các chương trình phòng tránh lũ của các nước ở thượng lưu. Ngoài các biện pháp phi công trình như dự báo lũ, thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, ĐBSCL đã có các biện pháp công trình kiểm soát lũ như làm đê bao, bờ bao và hệ thống cống điều tiết lũ.

Có thể hiểu đê bao là những đường, đê được xây dựng vững chắc cao hơn mực nước lũ thiết kế nào đó (chẳng hạn mực nước đỉnh lũ năm 2000) để sao cho ở các trận lũ lớn nước không tràn qua. Đê bao thường sử dụng để bảo vệ các khu dân cư tập trung, các khu thị trấn, thị tứ, các khu công nghiệp tập trung và các vùng chuyên canh trồng cây ăn trái. Còn bờ bao là các đường bờ tạm thời với độ cao không vượt quá mực nước lũ tháng tám để khi thu họach xong lúa hè thu thì cho nước lũ tràn vào để lấy phù sa, thêm nguồn thủy sản, thau chua rửa phèn và vệ sinh đồng ruộng. Cho đến nay người dân Đồng bằng đã quen với mùa nước nổi và trong phương châm qui họach, từ Nhà nước tới nhân dân đều đồng tình phải sống chung với lũ, bảo vệ con người và tài sản, né tránh các mặt hại và tận dụng các mặt lợi do lũ mang lại. Đê bao, bờ bao cũng nằm trong các phương châm đó.

Đồng bằng sông Cửu Long vừa chịu các tác động của các họat động phát triển ở thượng lưu làm thay đổi chế độ dòng chảy, vừa phải chịu biến đổi của khí hậu gây nên các biến đổi trên biển như nước dâng, xâm nhập mặn, ô nhiễm nước biển do đất liền và khai thác ngoài biển… Một số các hoạt động ở thượng lưu có thể gây ra biến đổi dòng chảy đã được nhắc tới trong các báo cáo của các nhà nghiên thuộc đoàn JICA của Nhật Bản như: xây dựng các đập thủy điện Manwan, Dachaosan ở Trung quốc,  mở rộng các nhà máy thủy điện Nam ngum, Huay Ho, Nam Leuk ở Lào,  mở rộng phát triển nông nghiệp ở Nong Khai, Nakong Phanom, Mukdakhan, Ubon ở Tháilan,…

Hồ Tonle Sap ở Căm pu chia có vai trò đặc biệt quan trọng trong điều tiết cả dòng chảy mùa lũ và mùa cạn đối với Đồng bằng. Về mùa lũ, Biển hồ như vùng trữ nước tạo nên vùng đệm giữ nước làm giảm ngập lụt, và về mùa cạn xả thêm nước xuống Đồng bằng góp phần giảm xâm nhập mặn. Một ví dụ về vai trò điều tiết của hồ Tonle Sap là trận lũ 2000, do có hai đỉnh lũ và với đỉnh thứ nhất hồ đã đầy, đến khi xẩy ra đỉnh thứ hai hồ không còn chỗ chứa, toàn bộ nước lũ từ thượng lưu chảy hết về Đồng bằng gây ra trận lũ lịch sử như chúng ta đã biết. Từ đó một câu hỏi được đặt ra là điều gì sẽ xẩy ra cho Đồng bằng nếu chế độ dòng chảy ở thượng lưu cũng như hồ Tonle Sap thay đổi do các hoạt động phát triển.

Trên thực tế đã có một số dự án, chẳng hạn dự án quy hoạch lũ châu thổ sông Mê kông do Hàn quốc tài trợ qua Ủy hội sông Mê kông, nghiên cứu về sự thay đổi chế độ dòng chảy khi mở các đường thoát lũ ở phía bắc sông Mê kông trên đất Căm pu chia xuất phát từ Kompong Cham tới hồ Tonle Sap, đường thoát lũ (có thể lấy nước phát triển thủy lợi) từ Niek Lương tới đầu sông Vàm Cỏ, đường thoát lũ từ Cămpuchia qua giữa Đồng Tháp Mười tới sông Tiền. Những tính toán thủy lực cho thấy mực nước lũ tại Cần Thơ có thể cao hơn gần một mét.

Từ những phân tích trên, để thích ứng với sự biến đổi do các họat động phát triển ở thượng lưu, sự biến đổi do thay đổi khí hậu toàn cầu, và chủ động phát triển bền vững cho Đồng bằng cần phải có các chiến lược khôn khéo, mà đê bao và bờ bao là một trong các chiến lược đó. Phải bảo vệ triệt để các khu dân cư tập trung, các khu công nghiệp, đồng thời phải lợi dụng được lũ lấy phù sa, tăng nguồn thủy sản, vệ sinh đồng ruộng. Đê bao nhằm bảo vệ các khu dân cư, công nghiệp, còn bờ bao chỉ bảo vệ lúa hè thu cho tới tháng tám lại cho nước lũ vào đồng lấy phù sa và vệ sinh đồng ruộng. Đó là một chiến lược khôn khéo vừa phù hợp với chiến lược chung của cả lưu vực vừa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ dân sinh, phát triển sản xuất đặc biệt là cây lúa trong vùng ngập lũ.

Tuy nhiên, từ thực tế của các vùng bao triệt để như Chợ mới, vùng Thoại Sơn của An giang cũng vẫn phải có hệ thống cống để điều tiết lũ. Những năm đầu trồng lúa cho sản lượng cao nhưng nhưng giảm dần do đất không có phù sa bồi bổ. Vì thế, tỉnh và huyện đã có chương trình rất khôn ngoan là đa dạng hóa cây trồng vật nuôi, kết hợp mở cống lấy phù sa, lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo chứ không phải chỉ riêng cho trồng lúa. Đối với vùng Đồng Tháp Mười, các nhà nghiên cứu Nhật bản trong đoàn Jica khuyên rằng nên có sự luân phiên trong canh tác để có thể cho đất có thời ký “nghỉ” và cho lũ vào lấy phù sa tăng độ phì cho đất.

Mỗi hoạt động do con người tác động vào tự nhiên đều có mặt lợi và mặt hại. Phát huy tối đa các mặt lợi, giảm thiểu các mặt hại là quyết sách của các nhà quản lý. Trong phương châm đó, với đê bao, bờ bao rõ ràng là biện pháp rất cần thiết để đạt được lợi ích lớn nhất cho cả cộng đồng.

Năm 2006, có cuộc tranh luận về đê bao, bờ bao trên diễn đàn của báo Lao Động có nhiều nhà khoa học và người dân tham gia. Để kết luận cho diễn đàn, báo Lao Động cử 2 phóng viên do nhà báo Lục Tùng là trưởng đại diện ở ĐBSCL đến tỉnh Vĩnh Long gặp phỏng vấn ông Võ Văn Kiệt. Đọc bản thảo, chưa hài lòng, ông tự tay viết bằng chữ bút bi màu đỏ hơn 2 trang khổ A4 về quan điểm, và đánh giá thực chất của đê bao, bờ bao và sản xuất lúa ở ĐBSCL rồi chuyển trực tiếp cho tôi để chấp bút thành bài báo hoàn chỉnh. Bài viết này, đã đăng trên báo Lao Động (bản gốc File kèm theo) cho đến nay vẫn còn mang nguyên tính thời sự.

Vài năm gần đây, do số nơi “phá rào” đẩy mạnh việc làm lúa vụ 3, làm đê bao tràn lan số nơi không có trong quy hoạch. Đáng nhẽ phải tuyên truyền ngăn chặn vì “lợi bất cập hại” thì chính quyền địa phương, đặc biệt là Bộ NN&PTNT đã sai lầm chạy theo phong trào tự phát, biến lúa vụ 3 thành chính vụ. Đây là sai lầm, cần phải sửa, không có gì phải bàn cãi.

Về các câu hỏi của PGS Thang Văn Phúc, ở Đồng Tháp Mười vẫn có cháy rừng vì vào mùa khô, do cỏ và lá tràm ở những nơi khô ráo, nóng nực dễ bắt lửa, gặp sự bất cẩn của người dân gây nên cháy. Cây ăn quả theo quy hoạch là được trồng ở nơi bao đê chống lũ chính vụ. Những nơi bị ngập, khi nước rút làm chết cây ăn quả do mới chỉ đảm bảo làm đê chống lũ đầu vụ. Nước biển xâm nhập nhanh như vậy vì sao khả năng rửa mặn lại kém đi? Nên hiểu nước biển xâm nhập  sâu vào đất liền tức là nguồn nước ngọt từ thượng lưu về bị hạn chế. Trong thành phần nước biển chủ yếu là hàm lượng muối NACl, một phần KCl, muối gốc sunphat vv… Nước ngọt thành phần chủ yếu ion khoáng Na, Ca, Mg vv có tác dụng pha loãng hàm lượng muối biển. Do yếu tố thời tiết ít mưa, chưa kể do quy trình vận hành hồ chứa ở thượng lưu, không đủ lượng nước ngọt để pha loãng nên khả năng rửa mặn kém đi là điều dễ hiểu. 

T. V. T. 

PS Xin gửi kèm bài viết của ông Võ Văn Kiệt từ năm 2006 vẫn còn mang nguyên tính thời sự để các anh/chị tham khảo. 

Tác giả gửi trực tiếp cho BVN 

————————————————————— 

VÕ VĂN KIỆT 

VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG ĐÊ BAO, BỜ BAO PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ -XÃ HỘI Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Thời gian vừa qua, trên các phương tiện thông tin đại chúng phản ánh một số ý kiến đánh giá những mặt ích lợi cũng như còn tồn tại của đê bao, bờ bao ở Ðồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đặc biệt, báo Lao động tổ chức diễn đàn:”Tìm hướng phát triển bền vững cho vựa lúa của ĐBSCL” liên quan đến đê bao, bờ bao được sự quan tâm, tham gia của nhiều giới từ các nhà khoa học, nhà quản lý, đến sinh viên và người dân. Các ý kiến trao đổi, thảo luận ở hội nghị, hội thảo hay diễn đàn đều là các kênh phản hồi khoa học, phản hồi xã hội rất cần thiết để cho các cấp có thẩm quyền và những người có trách nhiệm, quan tâm, xem xét, giải quyết. Những thông tin từ các tranh luận cũng giúp ích ngay cả cho những người phản biện có điều kiện để lắng nghe và kiểm chứng lại những ý kiến của chính mình.

ĐBSCL có một vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội và là chìa khoá chính trong chiến lược an ninh lương thực Quốc gia. Với tiềm năng to lớn về nông nghiệp và thuỷ sản, trong các năm qua, ĐBSCL đóng góp hơn 50% sản lượng lương thực (khoảng 95% lượng gạo xuất khẩu), 65% lượng thuỷ sản và 70% lượng cây ăn trái của cả nước.

Tuy nhiên, ĐBSCL cũng gặp những hạn chế đến sự phát triển kinh tế-xã hội, vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn không nhỏ như cơ sở hạ tầng còn yếu kém, tình hình lũ lụt ngày càng diễn biến bất thường, hạn hạn xảy ra ngày càng khắc nghiệt, mặn xâm nhập sâu hơn, cháy rừng, xói lở bờ ngày càng nghiêm trọng, nông-thủy sản xuất khẩu của ta trên thị trường thế giới cũng luôn gặp những rủi ro cả về thị trường, giá cả, chất lượng, hàng rào thuế quan…

Chúng ta đều biết tài nguyên nước là sự sống còn của con người. ĐBSCL có 4 nguồn nước, đó là nước mặt sông Mê Công, nước mưa, nước ngầm và nước mặn từ biển, trong đó, nguồn nước sông Mê Công là quan trọng nhất. Mùa nước nổi xưa kia ở ĐBSCL gắn liền với lúa trời theo năm tháng đã chuyển dần thành mùa lũ với sản xuất 2-3 vụ trong năm do nhiều nguyên nhân: Khí hậu ngày càng biến đổi theo xu thế bất lợi, ngược lại, nhu cầu phát triển và tiêu thụ sản phẩm của con người ngày càng tăng cao. Năm 1970,  độ che phủ rừng ở hạ lưu sông Mê Công chiếm 50% diện tích đất tự nhiên, nay chỉ còn 25%. Tốc độ sinh trưởng dân số tăng nhanh, vì cuộc sống nên con người cũng tác động vào tự nhiên nhiều hơn. Các chương trình xây dựng nhà máy thuỷ điện, đắp đê, xây đập, phát triển sản xuất ở các nước thượng nguồn sông Mê Công đều ảnh hưởng trực tiếp đến dòng chảy sông Mê Công cả về chất lượng và số lượng. ĐBSCL chỉ chiếm 5% diện tích lưu vực sông Mê Công nhưng hàng năm phải hứng chịu lượng nước khoảng 400 tỷ m3 vào mùa lũ. Song song với các biện pháp phi công trình như dự báo lũ, cảnh báo lũ, thay đổi cơ cấu sản xuất cho phù hợp với vùng lũ, các biện pháp công trình cũng được quan tâm xây dựng để bảo vệ an toàn tính mạng cho nhân dân, bảo vệ sản xuất, phát triển cơ sở hạ tầng. Người dân, ngày càng hiểu rõ hơn, khi con người tác động vào tự nhiên, như xây dựng các công trình giao thông, thuỷ điện, thuỷ lợi… là bài toán đánh đổi giữa những cái “được” và cái “mất” vì theo quy luật biện chứng không ai cho ta tất cả. Vì thế, phải cố gắng sao cho những cái được là nhiều nhất và cái mất là ít nhất. Ví dụ như công trình thuỷ điện Sơn La đang được xây dựng sẽ góp phần to lớn vào lợi ích chống lũ, phát điện, phục vụ cho nông nghiệp, dân sinh, nhưng đất đai trong lòng hồ bị ngập, hàng ngàn hộ dân phải di dời khỏi nơi chôn rau, cắt rốn, cái mất, đôi khi cũng không dễ tính được bằng tiền. Nhà nước đã và đang quan tâm đến chính sách tái định cư, đền bù, bố trí lại sản xuất cho những người dân bị thiệt hại vì chính họ đã góp phần xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn cho cả cộng đồng.

Trong cuộc đấu tranh sinh tồn và luồn lách thiên nhiên để phát triển ở ĐBSCL, nhờ có sáng kiến của người dân ở Nam bộ, một mô hình bờ bao quy mô nhỏ bảo vệ diện tích lúa Hè-Thu ít ỏi khoảng gần trăm ha đã được an toàn trong mùa lũ ngay từ năm 1978 ở An Giang. Từ đó, được sự quan tâm của Nhà nước, với kinh nghiệm thực tế của người dân, Bộ Thuỷ lợi, các ban ngành trung ương, địa phương đã nghiên cứu các quy luật hình thành, diễn biến của lũ, đặc điểm địa hình, xem xét, phối hợp với các chương trình kiểm soát lũ của các nước thượng lưu để xây dựng hệ thống bờ bao ở ĐBSCL, và một số nơi, chuyển từ bờ bao sang đê bao, nhằm đáp ứng những yêu cầu khắt khe hơn đối với độ an toàn khu dân cư và sản xuất nông nghiệp. Trong quá trình hình thành và phát triển đê bao, bờ bao đã có hàng chục các cuộc họp, hội thảo lấy ý kiến của các giới, các ngành, các nhà khoa học cả tự nhiên và xã hội. Chính từ sáng kiến của người dân, rút kinh nghiệm từ các nước và tri thức của các nhà khoa học đã giúp cho những nhà hoạch định chính sách có cơ sở để quyết đoán lựa chọn quan điểm “chung sống với lũ” một cách chủ động ở ĐBSCL. Đê bao ở ĐBSCL hoàn toàn khác với đê ở sông Hồng. Ở vùng ngập sâu, không kiểm soát lũ như phía Bắc của các kênh Vĩnh Tế, kênh Vĩnh An, kênh Tân Thành-Lò Gạch bờ bao chỉ chống lũ đến trung tuần tháng 7. Vùng kiểm soát lũ ở Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên, bờ bao chống lũ tháng 8, sau khi thu hoạch lúa Hè-Thu cho lũ chính vụ tràn đồng để tận dụng các mặt lợi của lũ như lấy phù sa, vệ sinh đồng ruộng, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản và các sản phẩm khác liên quan đến lũ. Hệ thống đê bao có các cống, tràn thoát lũ để chủ động điều tiết nước. Chính nhờ có đê bao, bờ bao mà cuộc sống của người dân được an toàn hơn, sản xuất chủ động, ngành nghề đa dạng phát triển, hệ thống đê liên hoàn với đường giao thông.

Các đề tài nghiên cứu khoa học và số liệu thống kê về lợi ích kinh tế, xã hội trước và sau khi có đê bao, bờ bao ở ĐBSCL là một minh chứng không còn gì để bàn cãi. Các ý kiến phê phán hay băn khoăn về các mặt tồn tại của đê bao, bờ bao được đề cập như mức độ ảnh hưởng đến thoát lũ, khả năng lấy phù sa, sạt lở bờ bao sau mỗi trận lũ, phát triển quá nhiều lúa vụ 3 trong đê bao là rất đáng hoan nghênh, trân trọng bởi vì nó giúp cho những người có trách nhiệm phải xem xét, điều tra, tính toán để cần thiết bổ sung, đưa ra những biện pháp khắc phục các mặt còn khiếm khuyết. Tuy nhiên, cần tránh những nhận xét phiến diện, chủ quan, cục bộ, chỉ biết khai thác những điểm còn tồn tại, hạn chế cả trong quá trình thực thi cũng như trong quản lý, vận hành, mà không dựa vào tổng thể chung của cả hệ thống để đánh giá một cách khách quan và khoa học những hiệu ích to lớn do đê bao, bờ bao mang lại. Sở dĩ tôi phải nhấn mạnh như vậy vì trong quá khứ đã có không ít các nhà khoa học, kể cả một số người làm công tác quản lý đã phê phán, phản đối chủ trương xây dựng hồ Dầu Tiếng, kênh Hồng Ngự, cống đập Ba Lai, chương trình thoát lũ ra biển Tây, cầu Mỹ Thuận vv… Song, trên thực tế, lợi ích to lớn của các công trình nói trên cho đến nay thì ai cũng hiểu (ngay kênh Hồng Ngự được người dân biết ơn Nhà nước, đặt tên là kênh Trung ương).

Đê bao ở ĐBSCL không phải chỉ có ở vùng ngập lũ mà còn được xây dựng ở vùng ven biển để ngăn triều. Bài học kinh nghiệm, đắp đê, khai hoang, bảo vệ sản xuất, lấn biển đã có từ thời Uy viễn tướng công Nguyễn Công Trứ giúp cho dân lập nên 2 huyện Tiền Hải (tỉnh Thái Bình) và Phát Diệm (tỉnh Ninh Bình). Dải đất dọc bờ biển, ven các cửa sông ở ĐBSCL, giai đoạn trước năm 1945, thời Pháp cho đắp 3 tuyến đê ven biển: Tuyến đê từ thị xã Bạc Liêu đến Gành Hào (đê Trường Sơn), tuyến đê từ Long Phú đến cửa sông Mỹ Thanh hình thành năm 1973 được tiếp tục bổ sung nâng cấp dần; Vùng An Biên, An Minh thuộc tỉnh Kiên Giang, trước giải phóng cũng đã hình thành đoạn đê biển dài 24 km từ kênh 6 đến kênh Chủ Vàng. Đê biển Gò Công được hình thành từ dự án của Hàn quốc trước năm 1975, sau giải phóng đã được xây dựng vv…

Hệ thống đê biển, đê cửa sông ở ĐBSCL thực sự phát triển mạnh mẽ từ năm 1975 đến nay với mục đích bảo vệ dân cư, phát triển sản xuất, giao thông đường bộ, an ninh quốc phòng. Quá trình phát triển đê biển, đê cửa sông ĐBSCL đã được hình thành qua nhiều giai đoạn do yêu cầu thực tế của từng nơi. Tuy nhiên, hệ thống đê hiện có, khả năng chống triều cường, bão gió, nước biển dâng, trữ ngọt, kết hợp giao thông nông thôn còn rất hạn chế. Kích thước mặt cắt đê nhiều nơi chưa đủ, các tuyến đê chưa khép kín, lại thiêú các cống 2 chiều, bờ bao để phân ranh mặn ngọt, chủ động kiểm soát mặn phục vụ cho những nơi có nhu cầu nuôi trồng thuỷ sản vùng nước mặn, lợ, ngọt .

Bão LINDA năm 1997 và cơn bão số 4 năm 2004 đã làm dâng mực nước ở các trạm ven biển lên 1,5-1,9 m gây nhiều thiệt hại cho cư dân ven biển ĐBSCL là nơi có địa hình thấp và khá bằng phẳng. Trước tác động mạnh mẽ của thủy triều, sóng gió và bão tố, đê biển, đê bao cửa sông càng dễ bị phá vỡ, xói mòn. Theo dự báo của các nhà khoa học, khả năng mực nước biển ngày càng dâng cao đã trở thành nỗi lo chung cho cả cộng đồng. Trước mắt, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn và các tỉnh ven biển cần rà soát, đánh giá, tiếp tục đầu tư hoàn chỉnh hệ thống đê biển, đê cửa sông theo quy hoạch. Hệ thống rừng phòng hộ ven biển (các cây sú, đước, vẹt, bần…), ngoài chức năng đa dạng sinh học, còn là “tấm chắn” hữu hiệu góp phần bảo vệ đê biển. Về lâu dài, để thực sự chủ động đối phó với sự khắc nghiệt của thiên nhiên (bão tố, triều cường, nước biển dâng…), cùng với khả năng nguồn nước ngọt sông Mê Công ngày càng cạn kiệt, quý hiếm, cần nghiên cứu các mô hình tương tự đã xây dựng ở trên thế giới và khu vực. Hà Lan có diện tích tự nhiên, dân số tương tự như ĐBSCL, trong khi mặt đất rất thấp so với mực nước biển. Nhờ có hệ thống đê biển, âu thuyền hiện đại, vững chắc, cùng với cảng biển, phát triển công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp, GDP của Hà Lan gấp hơn 40 lần so với ĐBSCL.

Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội theo xu thế bền vững, Chính phủ đã xác định 3 khâu đột phá cần tập trung đầu tư ở ĐBSCL đó là: Phát triển giao thông, phát triển thủy lợi, và đào tạo nguồn nhân lực. Đê bao, bờ bao là một hạng mục quan trọng của công trình thuỷ lợi. Chính từ những thành quả và bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn của đê bao, bờ bao đã giúp cho chúng ta xây dựng tầm nhìn cho ĐBSCL: ”Quản lý thiên tai một cách khôn ngoan, sử dụng tài nguyên nước một cách hiệu quả vì một ĐBSCL kinh tế ổn định, thịnh vượng, môi trường đa dạng và bền vững”.        

Để hướng tới tầm nhìn nói trên, các ngành ở trung ương, trước hết là 2 Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn và Tài nguyên-Môi trường còn nhiều việc phải nghĩ, phải làm để có chiến lược- quy hoạch tổng thể thích ứng với các kịch bản phát triển kinh tế-xã hội của cả vùng và lưu vực sông Mê Công. Ngay trong lĩnh vực sử dụng đất ở nước ta, nhiều nơi, người dân vẫn còn bức xúc, khiếu kiện, trong đó, có cả lỗi của quy hoạch “treo”. Đất đai là bất động sản lại nằm trọn vẹn trong ranh giới chủ quyền lãnh thổ quốc gia, mà vẫn còn lúng túng trong việc quy hoạch sử dụng như vậy! Do đó, xây dựng chiến lược quy hoạch và sử dụng hợp lý tài nguyên nước cho lưu vực sông Mê Công, đặc biệt cho ĐBSCL, vùng kinh tế nông sản trọng điểm của cả nước, phải được đặc biệt coi trọng ở tầm vĩ mô, trước mắt cũng như lâu dài.

————–

Trích dẫn số email cần thảo luận

Trường ơi

Cho tôi hỏi giới khoa học hôm nay đánh giá “đê bao” như thế nào? Vừa qua, những bài viết của Trường về nông nghiệp là đụng vào những vấn đề sống còn và tương lai của đất nước; rất cần những cảnh báo sớm như thế.

Tôi không am hiểu về nông nghiệp cũng như thủy lợi, nhưng đang  “ngửi” thấy vấn đề này đang ngày càng “khét” lên một cách nguy hiểm; đến mức định viết lên những nỗi lo của mình. Giải quyết không thành công vấn đề nông nghiệp của nước ta, không có chuyện nước ta trở thành nước công nghiệp hóa được đâu!

Xin tất cả đừng quên điều này.

Nguyễn Trung./.

On Monday, 31 March 2014, 15:32, Nguyenvan Luat <nguyenvanluatcantho@gmail.com> wrote:

Tôi hoan nghênh bài viết của bạn Lê Phú Khải này, có nhiều tư liệu quý, tỏ thái độ với cái gì đúng (thủy lợi), và cái không đúng (nông dân thiệt thòi), chứ không phản biện là chỉ có đả phá. Cảm ơn Lê Phú Khải, cảm ơn Tô Văn Trường  chuyển tiếp. Tôi đã lưu.

Gs Nguyễn Văn Luật

 

On Monday, 31 March 2014, 17:01, Lang Nguyen <nguyenlang1927@yahoo.com.vn> wrote:

Cái gì cũng có mặt đúng và mặt sai, mặt được và mặt hạn chế. Do đó cần nhận biết, đánh giá đúng mức hai mặt đó để có giải pháp xử lý thích đáng.

Nhân vụ đê bao, xin hỏi hệ thống này có tác dụng gì đến việc phòng và hạn chế tác hại của việc nước biển dâng lên không ? Chúng ta không thể chống việc nước biển dâng lên nhưng chúng ta có thể và phải phòng, hạn chế tác hại của việc nước biển dâng lên.

31/3/2014

GS Nguyễn Lang

 

On Monday, 31 March 2014, 17:47, Thang Van Phuc <thangphuc66@gmail.com> wrote:

Bai viet kha sau sac va toi chia xe ve nhung ket qua cua QD 99/ song

cung con mot so cau hoi lon cua dong bang song CL hien nay : tai sao

dong bang SCL lai co chay rung Dong Thap Muoi ? Tai sao mua lu nuoc

lau rut ,ngap lam chet cay an qua ? Tai sao tinh trang nuoc bien lai

xam nhap nhanh nhu vay va kha nang rua man lai kem di ? De nghi cac vi giai thich  dum. Chao Ong ban Truong quy men !

Thang Văn Phúc

 

Nguyen Minh Nhi

To MeLPK

Today at 3:10 PM

Thân gởi hai anh,

Đọc bài của Lê Phú Khải  do anh Tô Văn Trường chuyển tôi không hiểu ai bài bác “Bờ bao ĐBCL”, nhưng trước hết tôi khâm phục Lê Phú Khải, một nhà báo chuyên nghiệp có tâm và có tài, có cái nhìn khách quan về ĐBSCL và các chủ trương của Chánh Phủ cũng như các công trình mà địa phương và bà con nông dân mình cực khổ trần thân làm nên. Tất nhiên có được và cũng có chưa được, nhưng vẫn hơn không làm gì mà ngồi “tán trên đầu đinh”. Đặc biệt tôi rất xúc động đọc đoạn anh LPK trích Nguyễn Văn Bổng về ND Nam Bộ, thân phận ông cha chúng tôi là vậy đấy!. Nội cái chuyện anh nhớ và trích đoạn văn nầy đủ thấy cái thâm thúy của nhà báo bậc anh hoặc bậc thầy rồi. Tiếc thật!

Nhân đây, tôi gởi bài tham luận mà tôi đã gởi đến Ban tổ chức Hội thảo (chưa  họp). Vì trong đó tôi có sử dụng tư liệu mà Phan Khánh sưu tầm, nhưng trong chú thích tôi có nói “Ông nầy phê phán công trình thoát lũ Biển Tây – T5- Võ Văn Kiệt là ‘cường điệu’ và ‘tuyên truyền'” là không khoa học và cũng không biết thực tiển, (có thể như ông nào đó mà LPK phản biện qua bài viết nói trên). Tôn trọng cơ quan mời mình tham luận, gởi hai anh đọc tham khảo và góp ý, chớ không phổ biến văn bản.

Thân kính,

Bảy Nhị.

 

This entry was posted in Lên Tiếng. Bookmark the permalink.