Anh Quoc
TRUNG QUỐC TRONG CÁCH NHÌN NHẬN CỦA DỊCH GIẢ TRẦN ĐÌNH HIẾN VÀ CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC NÓI VỀ TRUNG QUỐC
Trong phần này xin giới thiệu thêm một bài nói chuyện của Lưu Á Châu trước các học viên không quân, cho thấy góc nhìn của ông ấy về Trung Quốc như thế nào.
TRUNG QUỐC KHÔNG CÓ NHÀ TƯ TƯỞNG
Lịch sử phương Tây là quá trình “bỏ ác theo thiện”. Lịch sử Trung Quốc lại là quá trình “bỏ thiện theo ác”.
Phương Tây cổ đại cấm đủ điều, chỉ có bản năng con người là không cấm. Trung Quốc cái gì cũng không cấm, chỉ cấm bản năng của con người.
Người phương Tây dám thể hiện chính mình và tư tưởng cá nhân, cũng dám “khoe” bản thân lõa thể. Người Trung Quốc chỉ biết “mặc quần áo”. “Mặc quần áo” cho tư tưởng. Mặc quần áo dù sao cũng dễ hơn cởi quần áo.
Hegel nói: “Trung Quốc không có triết học”. Tôi nhận định Trung Quốc hàng ngàn năm qua chưa từng sinh ra tư tưởng gia. Tư tưởng gia mà tôi nói tới, là những người có cống hiến trọng đại cho tiến trình văn minh nhân loại như Hegel, Socrates, Plato…
Lão Đam (Lão Tử) có phải là tư tưởng gia hay không? Chỉ dựa vào cuốn “Đạo đức kinh” 5.000 chữ có thể trở thành tư tưởng gia được không? Chưa kể tới “Đạo đức kinh” có vấn đề.
Khổng Tử có thể xem là tư tưởng gia chăng?
Hậu nhân chúng ta “kiểm duyệt” ông thế nào? Tác phẩm của ông chưa từng cung cấp cho người Trung Quốc một thể hệ giá trị quan về nội tâm có thể đối kháng được quyền lực thế tục. Cái ông đem lại là “tất cả xoay vòng quanh quyền lực”.
Nếu như Nho học là tôn giáo, thì đó là “ngụy tôn giáo”; nếu là tín ngưỡng, thì đó là “ngụy tín ngưỡng”; còn nếu là triết học, thì đó là triết học của xã hội bị “quan trường hóa”.
Xét từ ý nghĩa này, Nho học là có tội đối với người Trung Quốc. Trung Quốc không thể có tư tưởng gia mà chỉ có chiến lược gia. Xã hội Trung Quốc là một xã hội binh pháp. Dân tộc của chúng ta chỉ tôn sùng chiến lược gia.
BA HÀNH VI CẢN TRỞ
1 – Nguỵ biện
Trong giáo trình có một khẳng định: Trung Quốc phát minh ra thuốc súng. Sau khi thuốc súng truyền tới châu Âu đã “phá vỡ những thành trì phong kiến thời Trung cổ” ở châu Âu.
Thật là nực cười, anh phát minh ra thuốc súng đi phá vỡ “thành trì phong kiến” của người ta, vậy thành trì của chính anh tại sao không bị phá? Ngược lại còn kiên cố hơn?
Khi thảo luận vấn đề Đài Loan tại ĐH Quốc phòng, có một quan điểm khá “ăn khách”: Đài Loan là một “chiếc khóa”. Nếu không giải quyết được vấn đề Đài Loan thì “chiếc khóa” sẽ chặn “cửa lớn” của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ không có đường ra biển lớn.
Quan điểm này là ngụy biện. Tôi có thể phản bác lại trong một câu.
Tây Ban Nha sau khi trở thành cường quốc trên biển đã không hề chặn nước láng giềng Bồ Đào Nha cũng trở thành cường quốc đại dương.
Eo biển Dover (Calais), Pháp chỉ cách lãnh thổ nước Anh 28 hải lý, Anh có ngăn cản Pháp trở thành cường quốc trên biển hay không?
Mấu chốt khiến Trung Quốc mất đi đại dương chính là các thế hệ thống trị trong lịch sử không có quan niệm “hải quyền”.
2– Đối ngoại mềm mỏng, đối nội tàn nhẫn
Văn minh châu Âu và văn minh Trung Quốc gần như cất bước cùng nhau, nhưng châu Âu hình thành nhiều quốc gia nhỏ, trong khi Trung Quốc hình thành một đại đế quốc thống nhất.
Nói tới điều này, chúng ta thường cảm thấy vui mừng. Kỳ thực, việc châu Âu hình thành nhiều quốc gia chính là một cách thể hiện lục địa này có tự do tư tưởng.
Mặc dù bọn họ chia thành nhiều nước nhỏ, nhưng, ít nhiều những gì có liên quan tới văn minh nhân loại đã được sinh ra từ chính những quốc gia tách rời này.
Còn chúng ta làm được gì cho văn minh thế giới?
Thống nhất giang sơn chắc chắn có liên hệ tất yếu với thống nhất tư tưởng. Xã hội chiến lược là xã hội mang tính hướng nội. Tôi từng nghiên cứu kỹ lưỡng những khác biệt giữa Mỹ-Trung: Trung Quốc ở các sự vụ quốc tế về cơ bản là mềm mỏng, đối với sự vụ trong nước thì cứng rắn.
Nước Mỹ ngược lại, cứng rắn trong lĩnh vực sự vụ quốc tế, mềm mỏng ở các vấn đề quốc nội.
Tôi không nhớ tôi đọc được vấn đề này trong cuốn sách nào, nhưng có một kết luận: Đó là do bất đồng văn hóa quyết định. Văn hóa Trung Quốc là khép kín, hướng nội; văn hóa Mỹ là cởi mở, hướng ngoại.
Quan niệm “nhất thống” cũng là một tư tưởng theo kiểu hướng nội. Điều này giải thích vì sao chúng ta là “cừu” trước các thế lực ngoại xâm, nhưng lại là “sói” trước chính đồng bào của mình.
3– Thấp hèn, thô lỗ
Tinh thần thấp hèn tất dẫn đến hành vi thấp hèn. Tinh thần cao quý sẽ đưa tới hành vi cao quý.
Khoảng 20 năm trước, ở khu tập thể tôi sống phát sinh một chuyện thế này: Một đôi vợ chồng đòi ly hôn. Ông chồng đưa “tình mới” về nhà, cãi cọ ầm ĩ. Bà vợ chạy lên nóc nhà định nhảy xuống.
Người vây xung quanh đứng xem rất đông. Có người hào hứng hét lên: “Nhảy đi! Nhảy đi!”.Sau đó bà vợ được cảnh sát cứu xuống, những người xem thậm chí còn thấy tiếc nuối.
Tôi thở dài trở về nhà, bật tivi xem. Truyền hình đang phát một câu chuyện ở châu Âu. Tại nước nào đó, tôi nhớ mang máng là Hungary, 70 năm trước có một thợ mỏ trẻ tuổi chuẩn bị làm đám cưới.
Lần cuối cùng người này xuống mỏ trước hôn lễ, tai nạn sập hầm xảy ra khiến anh ra đi mãi mãi. Cô dâu không tin người mình yêu đã ra đi nên mỏi mòn chờ đợi suốt 70 năm.
Gần đây người ta tu sửa lại hầm mỏ đã phát hiện ra một thi thể chính là chú rể khi trước. Do trong hầm không có không khí, thi thể chú rể lại ngâm trong nước chứa khoáng chất nên vẫn giữa được sự trẻ trung như 70 năm trước. Còn cô dâu khi ấy đã trở thành một bà lão tóc bạc trắng.
Bà ôm thi thể người yêu khóc thảm thiết và đưa ra quyết định tiếp tục hoàn thành hôn lễ.
Đó là một cảnh tượng chấn động lòng người: Tân nương 80 tuổi trong bộ váy cưới trang trọng màu trắng, tóc bà cũng trắng như tuyết. Người yêu của bà, vẫn trẻ trung như vậy, được đặt nằm trong cỗ xe ngựa.
Hôn lễ và tang lễ cử hành đồng thời, khiến bao người phải rơi nước mắt.
Sự kiện dễ dàng khảo nghiệm tiêu chuẩn đạo đức của dân tộc chúng ta nhất chính là sự kiện 11/9 ở Mỹ. Vụ 11/9 dù không thay đổi thế giới, nhưng đã thay đổi nước Mỹ. Đồng thời, thế giới cũng rất khó quay trở về thời điểm “trước 11/9”.
Khi vụ khủng bố trên xảy ra, ở đất nước chúng ta, ít nhất là trong một khoảng thời gian, một bầu không khí “kém lành mạnh” lan tỏa khắp nơi.
Tối 12/9, có người gọi điện cho tôi nói rằng, sinh viên trường ĐH Bắc Kinh và ĐH Thanh Hoa đang “khua chiêng gõ trống”.
Tôi nói đội tuyển bóng đá Trung Quốc ngày 7/10 mới thi đấu. Đó là trận cuối cùng gặp Các tiểu vương quốc Ả-Rập thống nhất (UAE), nếu thắng sẽ lọt vào vòng chung kết World Cup.
Một lúc sau tôi mới biết thì ra các sinh viên Trung Quốc đang ăn mừng tòa tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC) tại Manhattan bị máy bay khủng bố đâm vào.
Trung Quốc có một đoàn đại biểu nhà báo, khi ấy đang làm việc tại Mỹ. Khi nhìn thấy tháp đôi bị đâm trúng, nhóm ký giả này không đừng được đã vỗ tay hoan hô.
Đây là một dạng thẩm thấu văn hóa. Không thể chỉ trích bọn họ vì hành động như vậy, bởi bản thân họ đã không thể tự kiểm soát được bản thân nữa. Kết quả nhóm này bị Mỹ tuyên bố “vĩnh viễn không hoan nghênh”.
Tôi ở Không quân Bắc Kinh, mấy ngày ấy có nhiều người trong bộ đội tới thăm, tôi đều hỏi cách nhìn của họ về sự kiện 11/9. Tất cả đều nói: “Nổ rất hay”.
Về sau tôi mới nói, đó là điều đáng buồn. Nếu những người như thế yêu Trung Quốc, vậy Trung Quốc còn cứu được không? Truyền thông thì không cần nhắc tới, vì nơi không có thời sự nhất ở Trung Quốc chính là trên mặt báo.
Năm 1997, công nương Diana qua đời trong vụ tai nạn giao thông. Bạn không cần biết Diana là người thế nào, Hoàng gia Anh ra sao, nhưng chí ít nhân vật này có “giá trị thời sự”. Các tờ báo lớn trên thế giới đều đăng thông tin đó trên trang nhất, chỉ có báo Trung Quốc không đăng.
Ngày hôm đó, dòng tít lớn nhất trên báo chí Trung Quốc là “Các trường trung học, tiểu học ở Bắc Kinh khai giảng”. Bài báo này chẳng khác đưa tin “Ngày hôm nay người dân Bắc Kinh ăn cơm” là mấy, giá trị chỉ có vậy.
Tối ngày thứ hai sau vụ 11/9, tôi xem chuyên mục “Phỏng vấn tiêu điểm” trên truyền hình với hy vọng được nghe một số bình luận về sự kiện này. Kết cục, chương trình tối hôm đó nói về… tăng cường tự thân xây dựng chi bộ đảng ở nông thôn như thế nào.
Anh muốn xem gì? Đều không có. Cái anh không muốn nghe thì nhất định nói cho anh nghe. “Những cái miệng quốc gia” (các MC nổi tiếng – PV) đương nhiên không có tội tình gì.
Bao người thiệt mạng trong vụ 11/9 đều là vô tội. Thứ mất đi là sinh mạng, điều tôn nghiêm nhất trên thế giới. Bản thân những sinh mạng này không liên quan gì tới chính phủ Mỹ.
Chúng ta đối đãi với người khác bằng thái độ như vậy, nhưng người ta không dùng thái độ đó đối xử với chúng ta. Đối chiếu rõ ràng nhất chính là vụ thảm án Dover.
Năm đó, một nhóm người Phúc Kiến trốn trong xe chở động vật từ eo biển Dover vượt biên vào Anh. Do bị thiếu không khí vì phải ở trong xe kín vài chục giờ đồng hồ, đa số đều bị ngạt chết, chỉ còn 2 người sống sót.
Sau khi vụ việc bung bét, Đại sứ quán Trung Quốc không có lấy một người ra mặt. Cuối cùng, người dân Anh ở Dover phải đứng ra cử hành đám tang và truy điệu những người thiệt mạng.
Rất nhiều trẻ em đã tới tham gia, trong tay chúng cầm đồ chơi do Trung Quốc sản xuất. Nhân tiện nhắc tới, trên thế giới hiện nay có tới 90% đồ chơi là “Made in China”.
Phóng viên hỏi các em nhỏ: “Vì sao tới tham gia lễ truy điệu?”, đám trẻ trả lời rằng: “Vì bọn họ cũng là người, đồ chơi mà chúng cháu cầm trong tay có thể do một trong số họ góp phần làm ra”. Trong cả lễ truy điệu ấy không có một người Trung Quốc nào.
Thế nào gọi là văn minh, thế nào là không văn minh? Tôi vẫn đang suy nghĩ.
Văn hóa Trung Quốc giáo dục ra người Trung Quốc. Đầu tiên, xem nhẹ tính mạng của bản thân thì mới coi người khác và tính mạng của họ như trò đùa. Tự thân không có quyền lực để quý trọng sinh mạng của mình, cũng không cho phép người khác có.
Lỗ Tấn từng phê phán tâm thái bàng quan cũng được “luyện” thành từ đó. Người Trung Quốc thấy người khác bị giết, không ai không hào hứng kích động.
Giai cấp thống trị cũng cố tình đưa người ra giữa đám đông để hành hình. Giai cấp bị trị thì hưởng thụ cảm giác “hưng phấn” của nhà thống trị trong đám đông.
Đặc biệt là khi phạm nhân bị xử tử bằng lăng trì, người xem đông “như rừng như biển” suốt 3 ngày 3 đêm. Ngay cả quán sá cũng mang ra đó mở hàng, đao phủ tay còn nhuốm máu vẫn cầm bánh bao rao bán.
Ngày nay không còn lăng trì nữa, nhưng thói quen “xét xử giữa công chúng” vẫn còn.
Ngày xưa người dân đi xem xử tử Đàm Tự Đồng và nhóm Lục quân tử (sự kiện Mậu Tuất biến pháp 1898 – PV) như trẩy hội thì làm sao trận Giáp Ngọ (1894) không thất bại?
Còn hậu duệ của bọn họ thì thế nào? […]
Anh thực hiện được “4 hiện đại hóa” thì có tác dụng gì? Buổi sáng tôi thường xem tivi trong khi tập thể dục. Sản phẩm “chạy” nhất trong tiết mục quảng cáo của Thời sự Buổi sáng là gì? Cửa chống trộm.
Đó là bi kịch của một dân tộc. Chúng ta sống như ở trong lồng. Khi tôi sống tại Thành Đô thì ở trong căn hộ của mấy đời Chính ủy Không quân trước đó.
Vừa vào nhà nhìn qua thì, trời ơi, như ở trong ngục vậy! Cửa sổ và ban công đều được lắp các tấm lưới chống trộm. Tôi cho bỏ hết.
Gần đây có một cuốn sách tiêu đề “Trung Quốc có thể nói ‘Không'”. Tôi nói, đúng là anh có thể nói “không”, nhưng anh nói khi đứng sau cánh cửa chống trộm. Đó không phải là dũng cảm, mà là yếu hèn.
Kiều Lương (Thiếu tướng, tác giả quân đội nổi tiếng Trung Quốc – PV) nói rất hay: “Những người ái quốc mà đến trông thấy phường trộm cắp chó gà còn phải tránh đường để đi, lại có hào khí can đảm nói ‘không’ với các cường quốc phương xa!”.
NHÌN NHẬN VỀ NƯỚC MỸ
Cần nhìn nhận nước Mỹ khách quan, toàn diện.
Mỹ là quốc gia như thế nào?
Trước đây tôi từng nghe một câu mô tả: Những gì tốt nhất và tồi tệ nhất trên thế giới cộng lại chính là New York. Dùng câu này để nói về nước Mỹ ngày nay phải chăng cũng phù hợp?
Thế hệ quân nhân chúng ta là những quân nhân gánh vác hy vọng tương lai của đất nước. Không thể làm “phái thân Mỹ”, nhưng cũng không thể đơn giản là “phái chống Mỹ”, mà phải là “phái hiểu Mỹ” thành thục.
Biết đối thủ mới chiến thắng được đối thủ. Hạ thấp đối thủ chính là hạ thấp bản thân. Thác Bạt Hoành (Hiếu Văn Đế triều Bắc Ngụy – PV) đổi tên nước Nhu Nhiên thành Nhu Nhu, ý là “sâu bọ”, rồi ông bị chính Nhu Nhiên đánh bại, khác nào “không bằng cả sâu bọ”.
Mỹ không mong Trung Quốc hùng mạnh, cũng giống như Trung Quốc không hy vọng Mỹ “xưng bá”. Quan hệ Mỹ-Trung có xung đột, nhưng cũng có lợi ích chung nhất định.
Làm thế nào để hóa giải xung đột, phát triển lợi ích chung mới là điều mà các nhà ngoại giao Trung Quốc cần phải nỗ lực thực hiện.
Trung Quốc muốn phát triển thì không được đoạn tuyệt giao lưu với thế giới. Thế giới hiện tại vẫn là đơn cực. Chỉ có Mỹ suy yếu mới xuất hiện thế giới đa cực. Chúng ta không thể đoạn tuyệt với Mỹ, cũng không thể ôm kỳ vọng lớn vào Mỹ.
Hiện tại không phải là thời cơ thích hợp nhất để đối đầu với Mỹ. Lợi ích quốc gia phải là chuẩn mực cao nhất cho hành động của chúng ta.
Chúng ta cần nhẫn nại. Nhẫn nại không phải là mềm yếu. Chỉ có khuất phục mới là mềm yếu.
Mỹ đương nhiên không muốn Trung Quốc trỗi dậy, không muốn kinh tế Trung Quốc đi lên. Nhưng chúng ta cần nhớ: Đấu tranh với đối thủ thì anh nhất định phải cho đối phương chứng kiến cục diện mà họ không muốn thấy nhất.
Người Mỹ hy vọng người Trung Quốc nội chiến thì chúng ta đã nội chiến thật. Mỹ không “cười lăn cười bò” mới lạ. Đương nhiên, nếu chỉ “nằm gai nếm mật, nhẫn nại chờ thời” thì cũng không được.
Trung Quốc trong vai trò nước lớn có thể giống như một võ hiệp thời cổ đại, giấu mình trong thâm sơn cùng cốc tu luyện võ công, đợi ngày “quyết chiến” với kẻ địch hay không?
Với nguồn tài nguyên và dân số, cùng với văn hóa của Trung Quốc, Trung Quốc không có khả năng hùng mạnh như Mỹ, chưa kể nước Mỹ vẫn đang tiến lên không ngừng.
Vẫn là Mao Trạch Đông nói đúng: “Đánh vẫn phải đánh, đàm vẫn phải đàm, hòa vẫn phải hòa”.
Con người cần phải mưu trí. Đấu tranh về ngoại giao càng cần mưu trí. Phải “dắt mũi” được người khác chứ không phải bị người ta “dắt mũi”.
Khrushchyov (cựu Tổng bí thư đảng Cộng sản Liên Xô – PV) chính là một người mưu trí. Trong một lần đại hội, Khrushchyov “to gan” phê phán Stalin.
Có người đưa vụ việc lên báo chất vấn Khrushchyov rằng ông cũng là một nhân vật trong nhóm quyền lực cốt lõi thời Stalin cầm quyền, vậy tại sao không đứng ra phê phán từ thời đó?
Đáp lại, Khrushchyov đọc to câu hỏi một lần, sau đó hô lên trước đám đông: “Là ai đã gửi câu hỏi này? Hãy đứng ra đây!…”. Ở phía dưới xao động một hồi nhưng không có ai bước ra.
Khrushchyov bèn nói: “Các anh xem, trong tình hình dân chủ, không cần e sợ như thế này mà đồng chí gửi câu hỏi còn không dám đứng ra, vậy trong bầu không khí thời kỳ Stalin, có ai dám đứng lên phê phán ông ấy?”.
Trong cuộc đấu với nước Mỹ, chúng ta cần có mưu trí như Khrushchyov. Khi cần ẩn nhẫn thì ẩn nhẫn. Giống như Đặng Tiểu Bình từng nói với Thủ tướng Canada Pierre Trudeau:
“Taoguangyanghui (chiến lược ngoại giao ‘ẩn nhẫn’ của ông Đặng – PV) mà chúng tôi nói đến, bao gồm bất chấp thể diện cũng phải duy trì quan hệ với quốc gia phát triển nhất trên thế giới”.
Đại ý của Đặng Tiểu Bình là, Trung Quốc nhất định phải “đồng bước” cùng văn minh thế giới, không được xa rời văn minh thế giới. Khi cần đấu tranh thì quyết không nhượng bộ.
Sùng bái Mỹ là không đúng, thân Mỹ không đúng và ghét Mỹ cũng không đúng.
Chính phủ Mỹ, các chính khách và người dân Mỹ có điểm tương đồng, cũng có khác biệt. Anh phải có trí tuệ cao độ để phân biệt điều đó.
Trong quá khứ, nhân dân Mỹ giúp Trung Quốc thoát ách thực dân, cống hiến to lớn đưa xã hội Trung Quốc tiến bộ. Giữa hai nước không có xung đột về lợi ích căn bản.
Ngày nay, lợi ích quốc gia của Mỹ trải khắp toàn cầu, giữa hai nước đã có xung đột nảy sinh. Nhưng chúng ta vẫn phải dùng tâm thế đạo đức để đánh giá sự vật, không được kích động.
Điểm đáng sợ thực sự của nước Mỹ ở đâu?
Mặc dù Mỹ có quân đội hùng mạnh nhất thế giới, công nghệ tiên tiến nhất, nhưng tôi cho rằng điều này không đáng sợ. Nghe nói máy bay tàng hình của họ bay qua Trung Quốc rất tự do, nhưng điều đó cũng không có gì đáng ngại.
Những điều đáng sợ của Mỹ không nằm trong số đó.
Năm 1972, tôi theo học ĐH Vũ Hán. Trong tiết Chính trị, một thầy giáo giảng rằng: “Mỹ là đại diện cho các nước tư bản chủ nghĩa ‘giãy chết’, giống như Mặt trời xuống núi, hơi thở đã rất yếu ớt”.
Tôi – một sinh viên công-nông-binh trang bị “tận răng” – lập tức phản bác: “Thưa thầy, em cảm thấy thầy nói không đúng. Nước Mỹ dù không giống như Trung Quốc – là Mặt trời mọc đằng Đông lúc 8, 9 giờ sáng, nhưng họ cũng không phải là hoàng hôn, mà là Mặt trời giữa trưa”.
Câu nói của tôi làm thấy giáo giận tím mặt nói: “Em dám nói những lời như vậy ư!”.
Thầy giáo không hỏi tôi vì sao trả lời như vậy, nhưng đã dùng ngay một chữ “dám”. Tâm lý ở trong đó rất dễ dàng đoán định.
Chính “quốc gia tư bản chủ nghĩa ‘giãy chết'” đã lãnh đạo cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mới của thế giới thập niên 1990 của thế kỷ trước.
Khi tôi tốt nghiệp đại học cũng là lúc Trung Quốc cải cách mở cửa. Tôi lại có một quan điểm: Mỹ là quốc gia do hàng nghìn hàng vạn người không yêu tổ quốc của chính mình tập hợp thành, nhưng bọn họ đều yêu nước Mỹ.
Vào thời đó rất nhiều lãnh đạo một mặt thì mắng Mỹ, nhưng mặt khác lại đưa con cái sang Mỹ học hành. Sự khác biệt rất lớn!
Vậy, điểm đáng sợ của Mỹ là gì? Cá nhân tôi cảm thấy có 3 điểm:
1. Giới tinh anh của Mỹ không thể xem thường
Chế độ cán bộ và cơ chế tranh cử của Mỹ cho phép bảo đảm những nhà quyết sách của nước này là nhóm tinh anh.
Bi kịch của Trung Quốc, từ lớn như quốc gia cho tới nhỏ như từng cơ quan thì tình trạng phổ biến là, người có tư tưởng không quyết sách, người quyết sách không có tư tưởng. Người có đầu óc thì không có chức quyền, có chức quyền thì không đầu óc.
Mỹ thì ngược lại, hệ thống hình tháp của họ vừa hay phù hợp để “nâng” giới tinh hoa lên cao.
Vì vậy, thứ nhất, Mỹ không phạm sai lầm. Thứ hai, Mỹ ít phạm sai lầm. Thứ ba, nếu phạm sai lầm Mỹ cũng nhanh chóng sửa đổi.
Chúng ta phạm sai lầm, đó là thứ nhất. Thứ hai, thường xuyên phạm sai lầm. Thứ ba, phạm sai lầm rồi rất khó sửa sai.
Đối với một dân tộc hùng mạnh mà nói, tầm quan trọng của lãnh thổ đã giảm xuống, thay vào đó là theo đuổi “quốc thể”.
Người Mỹ không có yêu sách về lãnh thổ đối với bất kỳ quốc gia nào. Họ không quan tâm tới lãnh thổ, những gì Mỹ làm trong toàn bộ thế kỷ XX là tạo dựng vị thế.
Thế nào gọi là “tạo thế”? Bên cạnh kinh tế lớn mạnh chính là lòng dân! Có lòng dân thì quốc gia sẽ có sức “ngưng tụ”, mất đi lãnh thổ cũng có thể lấy về. Không có lòng dân thì anh có lãnh thổ cũng sẽ để mất.
Nhiều lãnh đạo quốc gia chỉ nhìn 1 bước. Nước Mỹ hành động thường tính trước 10 bước.
Chính vì như vậy, mỗi một sự kiện trọng đại trên thế giới kể từ sau Thế chiến II đều làm gia tăng vị thế của nước Mỹ. Nếu chúng ta để họ “dắt mũi” thì rất có khả năng sẽ đánh mất tất cả “vốn liếng” chiến lược.
Trọng tâm chiến lược của Mỹ sẽ không chuyển dịch sang châu Á, nhưng không có nghĩa là họ không bao vây Trung Quốc.
Rất nhiều người chỉ nhìn vào Mỹ bao vây Trung Quốc về quân sự, cũng như chỉ nhìn thấy chênh lệch giữa Mỹ-Trung về công nghệ và vũ khí mà không thấy được ở tầm chiến lược, đặc biệt là sự mất cân bằng ở bình diện ngoại giao còn nghiêm trọng hơn cả tụt hậu về khí tài.
Việc ngoại giao của Trung Quốc đối với Mỹ, hoặc là có hình thức mà không có giới hạn, hoặc là có chi tiết mà không có toàn cục.
Sau sự kiện 11/9, Mỹ tấn công Afghanistan trong vòng 2 tháng, áp sát Trung Quốc từ phía Tây. Áp lực quân sự từ Nhật Bản, […], Ấn Độ cũng không giảm.
Nhìn từ bên ngoài, Trung Quốc giành được một số lợi ích từ vụ 11/9, nhưng những lợi ích này có thể sẽ biến mất chỉ sau 1–2 năm nữa.
Tôi nhận định sự bao vây chiến lược đối với Trung Quốc là một dạng khác, không phải quân sự mà vượt qua quân sự.
Những năm gần đây, các quốc gia xung quanh chúng ta đều lần lượt cải cách chế độ xã hội, […]. Nga, Mông Cổ đã thay đổi; Kazakhstan cũng vậy, bên cạnh các quốc gia đi trước là Hàn Quốc, Philippines, Indonesia…
Mối đe dọa này đối với Trung Quốc còn nguy hiểm hơn đe dọa quân sự. Đe dọa về quân sự chỉ là hiệu ứng trong thời gian ngắn, trong khi sự bao vây bởi các quốc gia “dân chủ” như trên mới là ảnh hưởng dài hạn.
2. Nước Mỹ khoan dung và rộng lượng
Bạn nên tới châu Âu trước rồi qua Mỹ. Bạn sẽ nhận thấy sự khác biệt lớn: Buổi sáng tại châu Âu trên phố hầu như không có người, trong khi đường phố ở Mỹ có rất nhiều người tập thể dục, thậm chí cả ngày đều như vậy.
Tôi có một nhận định: Rèn luyện là một loại phẩm chất. Rèn luyện thân thể đại diện cho một dạng văn hóa cầu tiến. Muốn biết một quốc gia có mạnh mẽ hay không thì nhìn vào số lượng người tập luyện thể dục là rõ.
Người Mỹ có thể lấy quốc kỳ làm quần để mặc lên người. Tôi cũng mua một chiếc như vậy ở Mỹ và mặc thường xuyên.
Tôi mặc nó là để kỳ thị nó, để trút giận, giống như một dạng giải tỏa và thỏa mãn về tâm lý. Người Mỹ mặc nó là một kiểu chế giễu, nhưng bản chất khác nhau.
Người Mỹ có thể đốt quốc kỳ của họ giữa đường phố. Đới Húc (Đại tá không quân, Viện trưởng Viện nghiên cứu Hợp tác và An ninh hải dương Trung Quốc, bạn của tác giả – PV) nói: “Nếu một quốc gia ngay cả quốc kỳ của mình cũng tự đốt được, thì anh còn lý do gì để đốt quốc kỳ của họ?”.
3. Sức mạnh vĩ đại của tinh thần và đạo đức
Đây là điều đáng sợ nhất.
Sự kiện 11/9 là một thảm họa. Khi thảm họa ập đến, thứ đầu tiên gục ngã là thân thể, nhưng cái đứng vững là linh hồn. Có những dân tộc khi gặp tai họa, thân thể chưa đổ nhưng linh hồn đã tiêu biến.
Trong sự kiện 11/9 phát sinh 3 sự việc đều cho phép chúng ta nhìn thấy sức mạnh của người Mỹ.
Thứ nhất, sau khi phần đỉnh tòa nhà WTC bị máy bay đâm vào, khói lửa bốc lên, tình hình vô cùng nguy cấp. Mọi người thông qua lối thoát hiểm để ra ngoài nhưng không quá hoảng loạn.
Mọi người đi xuống, nhân viên cứu hỏa xông lên; đôi bên nhường đường cho nhau, không ai đâm vào ai. Khi có phụ nữ, trẻ em, người mù tới, mọi người tự giác nhường lối cho họ đi trước. Thậm chí một chú chó cũng được nhường lối đi.
Nếu tinh thần của một dân tộc không mạnh mẽ đạt tới trình độ nào đó thì họ tuyệt nhiên không thể có những hành động như thế. Đối diện với tử vong vẫn bình tĩnh như vậy, nếu không phải là thánh nhân thì cũng tiệm cận với thánh nhân rồi.
Chuyện thứ hai, ngày tiếp theo sau vụ 11/9, thế giới đã biết đây là hành động của các phần tử khủng bố Ả-Rập. Rất nhiều siêu thị, nhà hàng của người Ả-Rập bị những người Mỹ phẫn nộ đập phá. Các thương nhân người Ả-Rập cũng bị tấn công.
Trong thời khắc đó, một nhóm người Mỹ đã tập hợp lại và tới các siêu thị, nhà hàng của người Ả-Rập để đứng gác, đến các khu dân cư của người Ả-Rập đi tuần, ngăn chặn bi kịch leo thang.
Đây là một tinh thần như thế nào? Trung Quốc tự cổ đã có truyền thống báo thù. Tôi sống ở Thành Đô. Đặng Ngải (tướng Ngụy thời Tam Quốc – PV) phá Thành Đô xong, con trai Bàng Đức (tướng Ngụy – PV) đem nam phụ lão ấu cả nhà Quan Vũ giết sạch.
Những cuộc báo thù tanh máu không hiếm trong lịch sử Trung Quốc.
Chuyện thứ ba, chiếc máy bay Boeing 767 rơi xuống Pennsylvania vốn dĩ có mục tiêu là Nhà Trắng, do hành khách trên máy bay chống trả bọn khủng bố mới làm máy bay rơi xuống. Bởi thời điểm đó bọn họ đã biết tin tòa nhà WTC và Lầu Năm Góc bị máy bay đâm vào.
Các hành khác đã nhanh chóng quyết định, không thể không làm gì mà phải quyết tử với khủng bố. Cho dù là trong tình thế như vậy, họ vẫn làm một việc: Bỏ phiếu thông qua việc “liều chết” với những tên khủng bố.
Vào thời khắc sinh tử cũng không áp đặt ý chí của mình lên người khác. Sau đó tập thể đồng tình, họ mới hành động. Thế nào gọi là dân chủ? Đây chính là dân chủ.
Tư tưởng của dân chủ đã ăn sâu vào sinh mạng, huyết mạch, cốt tủy của họ. Một dân tộc như thế, họ không cường thịnh thì ai cường thịnh? Một dân tộc như thế, họ không thống trị thế giới thì ai thống trị thế giới?
Tôi thường suy tư rằng: Vũ khí tân tiến, công nghệ mới nhất, lực lượng vũ trang hùng mạnh nhất thế giới nằm trong tay những người như thế rất phù hợp. […] Cho dù nằm trong tay Trung Quốc, Trung Quốc có thể làm được gì cũng không biết chắc được.
Nước Mỹ có nhiều kinh nghiệm thành công đáng để chúng ta tham khảo, học hỏi. Sau vụ 11/9, Mỹ không thành lập “Ủy ban 11/9”, cũng không thành lập bộ chỉ huy khẩn cấp gì đó.
Tôi rất phản đối những điều không thực tế. Sau khi tôi tới Không quân Thành Đô, hoặc là không họp, hoặc là ít họp. Những cuộc họp không thể tránh thì họp nhanh. Việc đầu tiên tôi làm là thay đổi “học tập Thường ủy” thành tự học. Cầm văn bản đọc thì gọi gì là học!
Tôi đấu tranh với thế lực thủ cựu. Sức lực cá nhân tôi có hạn nhưng không thể không đấu tranh, cho dù sứt đầu mẻ trán cũng không nản.
Ví dụ, thường ở trong bộ đội tôi không ăn cơm. Ngày nào về nhà được thì tôi mang theo lương khô chứ không ăn trong quân. Tôi tới Sư đoàn 33, ở Không quân Bắc Kinh cũng như vậy. Nếu không thể không ăn thì tôi ăn đơn giản.
Dù nói rằng uống nửa lít rượu không đổ được hồng kỳ, ăn một bữa cơm không sập được giang sơn. Nhưng cái gì nhiều quá, lãng phí quá, để tích tiểu thành đại thì rất khó nói.
Khi nghiên cứu nước Mỹ, chúng ta nên nắm chắc nội hàm của nó. Không được chỉ nhìn những cái nhỏ, mà phải xem cái lớn.
Có một câu nói hay: Thường nghị luận khuyết điểm của người khác thì bạn là kẻ dưới đáy chuẩn mực đạo đức; thường nghị luận khuyết điểm của nhân loại thì bạn chính là tư tưởng gia.
LỜI KẾT
Qua bài diễn thuyết 3 tiếng đồng hồ ngày hôm nay, mục tiêu mà tôi theo đuổi là sự giải phóng con người. Nếu nói rằng tôi đến đây để gặp gỡ mọi người thì không bằng nói rằng mọi người tới để “nhận biết” tôi.
Tôi đã rất phóng khoáng trao gửi “toàn bộ bản thân” cho các bạn, tôi thể hiện tư tưởng cá nhân trước các bạn. Đặc biệt, những điều tôi nói về phương Tây, về nước Mỹ cũng không tách rời chủ đề cuộc thảo luận này.
Có 2 điều tôi muốn bổ sung. Thứ nhất, tôi là một người trung thành với chủ nghĩa dân tộc. Mọi điều tôi nói ra đều vì cái tốt cho quốc gia, dân tộc.
Trong bất cứ tình huống nào, tôi cũng xem lợi ích dân tộc là tối cao. Vì điều đó, tôi chấp nhận đổ máu, sứt đầu mẻ trán. Trong đầu tôi vẫn thường hiện lên cảnh tượng trong chiến tranh Triều Tiên:
Mùa đông năm 1951, đơn vị của cha tôi tấn công quân Mỹ. Do vũ khí thua kém Mỹ nên buộc phải mai phục trong đêm tại vị trí gần quân địch nhất. Một liên đội yên lặng chờ đợi cả một đêm.
Đêm đó trời đổ tuyết lớn, lạnh vô cùng. Lúc trời sáng, còi hiệu xung phong vang lên, nhưng hơn 100 chiến sĩ mai phục ở đó không có một ai đứng dậy. Tất cả bọn họ đã chết vì lạnh.
Cho đến chết họ vẫn giữ đội hình chiến đấu. Về sau Chủ tịch Mao khi nghe báo cáo, ông lập tức bỏ mũ, đứng dậy rất lâu không nói gì.
Chiến tranh biên giới Trung-Ấn 1962, máy bay Trung Quốc tiêu diệt một đơn vị của Ấn Độ. Đơn vị này ngày xưa từng thuộc biên chế quân đội Anh, tham gia cuộc Chiến tranh nha phiến lần thứ 2, hỏa thiêu Viên Minh Viên.
Chủ tịch Mao nhận tin qua điện thoại, đập bàn đứng dậy, nói: “Quốc nhục trăm năm!”.
Đồng thời, mọi người cũng nên nhận thấy, tình hình Trung Quốc so với phương Tây không giống nhau.
Có những việc mặc dù nhìn thấy rồi, nhưng lại không thể dễ dàng đạt được. Cũng có những việc còn chưa nhìn thấy. Có những khác biệt về quan niệm chỉ có thời gian qua đi mới rút ngắn khoảng cách được.
Lần đầu tiên gặp gỡ các cán bộ cấp doanh trở lên ở căn cứ Côn Minh, tôi đã vô cùng thẳng thắn, mạnh dạn nói nhiều như vậy. Đó là những thành quả nghiên cứu của tôi. Tôi chịu trách nhiệm với phát biểu của mình.
Chỗ nào nói đúng, các vị hãy ghi nhớ lấy; còn chỗ nào nói sai, mọi người hãy “vào tai này lọt tai kia”, xem như chưa nghe thấy.
Mỗi con người là một cá thể, mỗi cá thể đều được tự do. Tôi không thể áp đặt tư tưởng của mình lên mọi người. Tôi cũng không thể yêu cầu tư tưởng của mọi người phải thống nhất đến một tư tưởng nào đó. Đó là điều không thể.
Thế nhưng chúng ta lúc nào cũng muốn theo đuổi mục tiêu này. Đó là điều hết sức mơ hồ, trên thực tế không thể thực hiện được.
TRUNG QUỐC TRONG CÁCH NHÌN NHẬN CỦA DỊCH GIẢ TRẦN ĐÌNH HIẾN VÀ CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC NÓI VỀ TRUNG QUỐC
Đến đây tôi muốn kết thúc bài viết, nhưng có thể mọi người muốn tìm hiểu thêm về cuộc đời của dịch giả Trần Đình Hiến và Lưu Á Châu, nên biết gì tôi sẽ viết ra dưới đây để mọi người cùng đọc.
Năm 1990 Trung Quốc và Việt Nam nối lại quan hệ, theo Nhật ký Lý Bằng ghi lại trong Hội nghị Thành Đô, kết quả hội nghị thành công rất tốt đẹp.
“Đây là bước ngoặt có tính lịch sử trong mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam. Ngay tại lễ ký, đồng chí Giang Trạch Dân tặng các đồng chí Việt Nam câu thơ “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu [Tạm dịch: Qua hoạn nạn, anh em còn đó. Gặp nhau cười, hết sạch ơn thù]”. Đây là câu thơ của Lỗ Tấn. Các đồng chí Việt Nam tỏ ý vui mừng với việc tặng thơ này”.
Cuộc chiến giữa hai nước gần 10 năm kết thúc một cách lãng xẹt, những ngôn từ “Quân xâm lược bành trướng dã man”, “Tiểu bá hung hăng” nay được rũ sạch, cho thấy xương máu của nhân dân hai nước đổ xuống thật oan uổng.
Việt Nam mất mấy nghìn km2 đất, Ải Nam Quan đẩy về phía Trung Quốc, Thác Bản Giốc chia đôi, Gạc Ma rơi vào tay người đồng chí Trung Quốc… đâu có thể dễ quên như thế.
Kể từ khi hai nước nối lại quan hệ, vấn đề Trung Quốc trở thành nhạy cảm. Liệt sĩ không được công khai thừa nhận, các nghĩa trang đìu hiu, truyền thông nhà nước im tiếng…
Trong bối cảnh ấy, những cuộc hội thảo, hội nghị nói về Trung Quốc không còn công khai nữa, cụ Hiến thất nghiệp. Cụ bảo, bây giờ có ai mời nói chuyện về Trung Quốc tiền tỷ cũng xin chào em ngược.
Cụ quay ra dịch sách.
Cụ nghĩ, nghiên cứu về Trung Quốc cổ đại, cận đại thời quân chủ phong kiến đã nhiều người làm. Nay phải nghiên cứu Trung Quốc thời hiện đại thông qua những tác phẩm văn học của chính những người cộng sản viết về xã hội Trung Quốc.
Cụ kể, nhà văn cách mạng Trung Quốc có nhiều, số tác phẩm cũng rất đồ sộ, trong cái đống ấy làm sao phải tìm ra một vài tác phẩm tiêu biểu để nhìn nhận đúng đắn về Trung Quốc mới khó.
Cụ lần mò, rồi phát hiện ra Mạc Ngôn.
Mạc Ngôn không sợ lầm lẫn với thành phần giai cấp tư sản, nó viết gì cũng cài cắm tư tưởng chống đối. Mạc Ngôn đặc sệt là một nhà văn cộng sản, xuất thân từ thành phần vô sản, một tá điền nghèo khổ sinh ra ở vùng đất Cao Mật khô cằn, vào quân đội chưa đọc thông viết thạo, là đảng viên cộng sản rồi mới trở thành nhà văn.
Hôm cụ đến tặng bố tôi cuốn “Đàn Hương Hình” cụ rất tâm đắc, ngồi cả buổi nói về Trung Quốc, về Mạc Ngôn.
Cụ bảo, Trung Quốc nó cay lắm, mang tiếng là nước cộng sản lớn, nhưng không có một người Trung Quốc đại lục nào được giải thưởng Nobel (Đại lục là cách gọi khác của nước Trung Quốc cộng sản).
Trước năm 2010 có 7 người Trung Hoa được giải thưởng Nobel thì 3 là quốc tịch Đài Loan (Trung Hoa Dân quốc) 3 người Trung Hoa mang quốc tịch nước ngoài. Và chớ trêu nhất người còn lại là Lưu Hiểu Ba, công dân thứ thiệt của đại lục nhưng lại là nhà tranh đấu chống nhà nước cộng sản Trung Quốc, đang ngồi tù.
Khi biết tin Lưu Hiểu Ba được giải thưởng Nobel Hoà bình, nhà nước Trung Quốc rất tức giận, họ bảo đây là một điều sỉ nhục Trung Quốc, tố cáo Trung Quốc vi phạm nhân quyền, kích động người Trung Quốc chống lại nhà nước, và yêu cầu Hội đồng giải thưởng Nobel hủy quyết định.
Về nội bộ, họ cách chức bộ trưởng Bộ Ngoại giao, và giám đốc Cục Tình báo. Vợ Lưu Hiểu Ba ra sân bay để đến Stockhom nhận giải thưởng bị họ bắt quay về nhà.
Cụ nhận định, nếu Trung Quốc muốn có một giải thưởng Nobel một cách tự hào chân chính thì Mạc Ngôn xứng đáng nhận giải thưởng Nobel.
Nên biết rằng, cuốn “Đàn Hương Hình” được Cụ dịch ra tiếng Việt năm 2002, mười năm sau (2012) Mạc Ngôn được nhận giải thưởng Nobel cho thấy con mắt tinh đời của cụ.
Có một giai thoại về cụ, được người cháu ruột kể lại như sau:
Khi các tác phẩm của Mạc Ngôn được cụ dịch ra tiếng Việt được rất nhiều độc giả Việt Nam đón xem, đại sứ quán Trung Quốc cho người đến hỏi thăm cụ. Họ đem hoa và quà đến cảm ơn, đại ý họ ca ngợi cụ đem đến sự gần gũi, hữu nghị giữa hai nước, hai dân tộc thông qua việc phổ biến văn hoá, văn học Trung Quốc đến Việt Nam.
Qua cuộc nói chuyện với đại sứ quán Trung Quốc cụ có gợi ý Trung Quốc nên dịch các tác phẩm của Mạc Ngôn ra nhiều thứ tiếng, chuyển thể thành điện ảnh quảng bá lịch sử, con người Trung Quốc và Mạc Ngôn xứng đáng được giải thưởng Nobel.
Không biết họ có nghe cụ hay không, nhưng sau đó Trung Quốc đã làm đúng như vậy. Và bộ phim Cao lương đỏ của đạo diễn Trương Nghệ Mưu dựa theo cốt truyện cùng tên của Mạc Ngôn đã được giải thưởng lớn Gấu vàng trong liên hoan phim ở Berlin, tên tuổi của Mạc Ngôn ra với thế giới bắt đầu từ đấy. Sách của Mạc Ngôn được in ra hơn 10 thứ tiếng Anh, Pháp, Ả Rập…
Để ghi nhận những cống hiến của ông cho nền văn học thế giới, năm 2012, Mạc Ngôn nhận giải Nobel Văn học, trở thành nhà văn Trung Quốc đầu tiên nhận được giải thưởng danh giá này. Ủy ban Nobel khen ngợi khả năng kết hợp lịch sử, hiện thực đương đại và truyện dân gian của ông trong một chủ nghĩa hiện thực ảo giác khắc họa “mối liên hệ trần tục với mặt trái của lịch sử”.
Không biết Mạc Ngôn biết cụ như thế nào, một hôm đại sứ quán Trung Quốc đem thư của Mạc Ngôn gửi cho cụ, đại ý muốn mời cụ sang Bắc Kinh để gặp mặt và tặng quà.
Theo nhân viên đại sứ quán nói đó là một món quà có giá trị, như một giải thưởng lớn.
Cụ suy nghĩ một lúc, rồi từ chối, cụ gửi lời cảm ơn đến Mạc Ngôn lấy lý do tuổi tác đã cao, sức khỏe không tốt nên không thể đi được, cụ bảo nếu Mạc Ngôn có nhã ý tốt như thế thì nên sang Việt Nam, tiện thể cho cụ gặp và cụ xin nhận quà.
Thực tình là cụ sợ, người tàu họ thâm sang đấy khó an toàn, nên từ chối là thượng sách.
Và đúng như cụ tiên đoán, chẳng phải đây là thành ý của Mạc Ngôn với cụ, nó là kịch bản của đại sứ quán Trung Quốc, cho nên chẳng thấy thông tin nào nữa, câu chuyện im hơi lặng tiếng không có gì phản hồi.
Năm nay cụ bước sang tuổi 91 vẫn minh mẫn, hóm hỉnh, và còn nhiều việc phải làm như cụ nói.
Mạc Ngôn
Trong các phần trước chúng ta đã biết về Lưu Á Châu qua một số bài viết, có ba vấn đề được đúc kết về Trung Quốc từ chính những gì trong tư tưởng và cuộc đời của Lưu Á Châu.
1– Về bản chất bành trướng của Trung Quốc, thông qua cuộc xâm lược Biên giới nước ta năm 1979.
2- Về Đặng Tiểu Bình.
3- Nội tình Trung Quốc, thực chất tư tưởng Tập Cận Bình.
BẢN CHẤT BÀNH TRƯỚNG. Ý ĐỒ CỦA ĐẶNG TIỂU BÌNH
Vì sao Trung Quốc đánh Việt Nam năm 1979?
Điều này được Lưu Á Châu bộc bạch, nói rõ, không thể không đánh Việt Nam. Tại sao lại có cái lý lẽ côn đồ như thế?
Lưu Á Châu giải thích:
“Chúng ta phải nhìn nhận cuộc chiến này từ góc độ chính trị.
Ý nghĩa của cuộc chiến này nằm bên ngoài cuộc chiến. Cuộc chiến này của đồng chí Đặng Tiểu Bình là đánh để hai người xem, một là Đảng Cộng sản Trung Quốc, hai là người Mỹ… Về chính trị, cuộc chiến này không thể không đánh. Vì sao? Sau khi Đặng Tiểu Bình trở lại nắm quyền, chương trình cải cách mở cửa của Trung Quốc đã được ông vạch sẵn, muốn thực hiện chương trình này phải xác lập quyền lực tuyệt đối trong nội bộ Đảng. Phải đánh một trận… Muốn cải cách phải có quyền lực. Biện pháp xác định quyền lực nhanh nhất là gây chiến tranh…”.
Nhiều người còn hoài nghi việc Trung Quốc bán đứng Việt Nam bằng cách bắt tay với Mỹ sau chuyến thăm Trung Quốc của tổng thống Mỹ Richar Nixon năm 1972, có thể sáng mắt ra về sự thật được phơi bày.
Lưu Á Châu đã nói toạc ra:
“Liên Xô tan rã. 10 năm trước đó, Đặng Tiểu Bình đã nhận ra vấn đề này, dùng chiến tranh để vạch rõ ranh giới với các nước xã hội chủ nghĩa.
Đặng Tiểu Bình, thật là một kỳ tài! Vừa rồi, tôi nói gây ra cuộc chiến tranh này vì người Mỹ, chính là trả hận cho người Mỹ. Có bằng chứng không?
Có đấy. Ngày hôm trước rời Nhà Trắng thì ngày hôm sau, Đặng Tiểu Bình bắt đầu đánh Việt Nam.
Vì sao có thể giúp Mỹ hả giận? Bởi vì, người Mỹ vừa tháo chạy nhục nhã khỏi Việt Nam.
Chúng ta sao lại giúp người Mỹ hả giận? Thực ra không phải vì Mỹ, mà là vì chúng ta, vì cải cách mở cửa. Trung Quốc không thể cải cách mở cửa mà không có viện trợ của các nước phương Tây, đứng đầu là Mỹ. Nhờ cuộc chiến này, Mỹ đã ồ ạt viện trợ kinh tế, kỹ thuật, khoa học kỹ thuật và cả viện trợ quân sự, tiền vốn cho Trung Quốc… Cuộc chiến này đem lại cho Trung Quốc những gì? Đó là một lượng lớn thời gian, tiền bạc và kỹ thuật. Nhờ những yếu tố này, Trung Quốc tiếp tục đứng vững sau khi Liên Xô sụp đổ. Đây là thành công vĩ đại. Thậm chí có thể nói, bước đi đầu tiên của cải cách mở cửa Trung Quốc chính là từ cuộc chiến tranh này”
Thế là đã rõ, Trung Quốc chỉ vì lợi ích của mình, sẵn sàng lật lọng, đổi trắng thay đen. Chủ nghĩa xã hội chỉ là bình phong, công cụ lừa đảo nhân dân Trung Quốc và là cái dây xích trói cổ những quốc gia có ảo tưởng về nó.
Những gì Trung Quốc nói về tình hữu nghị, đồng chí cùng chí hướng, về 4 tốt, 16 chữ vàng đều là bịp bợm nhất định không tin.
NỘI TÌNH TRUNG QUỐC VÀ TƯ TƯỞNG TẬP CẬN BÌNH
Để tìm hiểu nội tình Trung Quốc, con đường ngắn nhất chính là nhìn vào sự nghiệp chính trị của Lưu Á Châu.
Sau khi Mao chết, một ngôi sao nổi lên trên bầu trời chính trị Trung Quốc đó là Đặng Tiểu Bình. Và một hoàng đế mới ngự trị đó là Tập Cận Bình.
Đây là một kết quả tất yếu xét về bản chất thiên triều và bành trướng của tất cả các triều đại, các thế lực cầm quyền Trung Quốc.
Lưu Á Châu nói Trung Quốc không có nhà tư tưởng, điều này có phần đúng, có phần không đúng. Thứ tư tưởng mà các hoàng đế, cũng như các lãnh đạo cộng sản Trung Quốc không có đó là tự do, dân chủ của thế giới phương tây hướng tới, còn tư tưởng đại bá, bành trướng đã có sẵn trong huyết quản của họ.
Đến đây một người có thể nhận ra rằng, tại sao Đặng Tiểu Bình chỉ là một ngôi sao, kiến trúc cải tổ, còn Tập Cận Bình lại trở thành hoàng đế.
Đặng Tiểu Bình xét về công lao, trí tuệ xứng đáng là bậc vĩ nhân suất sắc nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Cái vĩ nhân ấy chỗ nào?
Đó là đánh đổ thần tượng Mao Trạch Đông. Theo Đặng Tiểu Bình, cải cách mở cửa nếu còn thần tượng Mao Trạch Đông trong đầu người Trung Quốc nhất định sẽ thất bại. Muốn có một chính sách gì phái báo thủ lại lôi thần tượng ra để viện chứng, chủ tịch Mao nói thế này, nói thế nọ để lôi kéo những kẻ u mê chống lại thì chính sách ấy có thực hiện được không?
Cái này những người lãnh đạo Việt Nam nhất định phải học Đặng Tiểu Bình, cải cách mở cửa ở Việt Nam sẽ đi vào bế tắc nếu vẫn còn thần tượng để những kẻ bảo thủ lấy ra làm bảo bối.
Trong con người của Đặng Tiểu Bình không có tư tưởng đại bá, bành trướng, thiên triều cho nên ông ta không thể là hoàng đế Trung Quốc.
Đến đây sẽ có nhiều người phản bác, Trung Quốc đánh Việt Nam năm 1979 có phải là bành trướng hay không?
Xin hiểu rằng, dã tâm bành trướng là thuộc tính của các nước lớn, không riêng gì Trung Quốc, cho nên “bành trướng” chỉ là ngôn ngữ chung nhất nói về bản chất của họ.
Nhưng một cuộc chiến lại có mục tiêu cụ thể của nó.
Mục đích của Đặng Tiểu Bình đánh Biên giới Việt Nam có nhiều, cho Việt Nam một bài học là một mục đích.
Lúc ấy phái bảo thủ ở Trung Quốc rất mạnh, Đặng Tiểu Bình đang thực hiện “4 hiện đại hoá”, trong đó có Hiện đại hoá quân đội, phái bảo thủ phản đối, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đánh đâu thắng đó, Mỹ chỉ là con hổ giấy tại sao phải hiện đại hoá quân đội?
Đánh Việt Nam, Đặng Tiểu Bình cho truyền thông bám sát, hàng ngày đưa các bản tin chiến sự cho cả nước xem.
Quân đội ăn mặc nhếch nhác, vũ khí thua kém lạc hậu, tác chiến hợp đồng loạn xì ngầu… đánh với bộ đội địa phương, dân quân, tự vệ Việt Nam còn bét nhè thì với chủ lực thì sao? Với Liên Xô, Ấn Độ thì thế nào?
Một nỗi lo, và hoảng sợ bao trùm lên giới lãnh đạo Bắc Kinh… Đặng Tiểu Bình đã thuyết phục được chính sách 4 hiện đại hoá một cách ngoạn mục như thế.
Đặng Tiểu Bình căn dặn “Giấu mình phát triển”, “Thao quang dưỡng hối”, đây là một sách lược, không phải là một tư tưởng, cho nên khi Trung Quốc đã phát triển vai trò của Đặng Tiểu Bình cũng chấm dứt, tư tưởng đại bá nghìn đời sống lại, và Tập Cận Bình nổi lên.
Tư tưởng của Tập Cận Bình về sự bành trướng của Trung Quốc thực ra không có gì mới.
Về đối ngoại.
Đó là cách tiếp cận với thế giới thông qua sáng kiến “một vành đai, một con đường”, giống như “Con đường tơ lụa” hơn 2000 năm về trước.
Mục tiêu tranh giành ảnh hưởng bằng kinh tế thương, mại với Mỹ, trở thành một cực, trong thế giới đa cực.
Về đối nội.
Lấy nội trị để giữ được sự thống nhất, toàn vẹn một Trung Quốc rộng lớn, lấy chống tham nhũng làm công cụ trấn áp các lực lượng đối lập, chống đối.
Lấy việc giải phóng Đài Loan là việc tiên quyết bằng mọi giá, để dằn mặt các thế lực ly khai, và sự can thiệp của các thế lực nước ngoài về vấn để nội bộ Trung Quốc.
Đến đây chúng ta lại quay về tìm hiểu cuộc đời và thân phận của Lưu Á Châu, để giải thích câu hỏi tại sao sự nghiệp Lưu Á Châu lại đứt gánh giữa đường, kết cục cay đắng.
Lưu Á Châu sinh năm 1952, cùng tuổi Nhâm Thìn với Tập Cận Bình,đều là những hạt giống đỏ được chế độ ươm mầm thành những người lãnh đạo sau này.
Tập Cận Bình là con Tập Trọng Huân, phó thủ tướng Trung Quốc.
Lưu Á Châu là con rể của chủ tịch nước Lý Tiên Niệm.
Cha của ông, Lưu Kiến Đức, đã tham gia Tân Tứ quân trong những năm đầu đời, sau đó tham gia chiến tranh Triều Tiên, cuối cùng trở thành phó chính ủy cục hậu cần của Quân khu Lan Châu.
Cuộc đời của Lưu Á Châu phát triển trên con đường binh nghiệp, được đào tạo rất bài bản, thăng tiến rất nhanh…
Về cá nhân Lưu Á Châu có thực lực, rất thông minh, ham học hỏi, và phải nói có tư chất của một người lãnh đạo.
Nhưng tính cách phóng khoáng, tư tưởng tự do, dân chủ đã làm hại cuộc đời của mình. Trong một chế độ độc Đảng cầm quyền thì dù anh có tài giỏi đến đâu, nhưng chệch đường ray của tư tưởng, chế độ, chính sách đã được ban hành thành nghị quyết, chủ trương, đường lối thì không cách này, hay cách khác, kể cả mưu hèn kế bẩn họ sẽ bị hạ bệ, ám hại.
Về mặt tư tưởng, Lưu Á Châu là một con người dân tộc chủ nghĩa, ủng hộ Mao và Đặng Tiểu Bình. Coi Đặng Tiểu Bình như người thầy mưu lược, coi Mao như một lãnh tụ có phẩm chất của một hoàng đế.
Nhưng lại là kẻ phê phán Tập Cận Bình, phê phán sáng kiến “một vành đai một con đường” về chính sách vũ lực với Đài Loan.
Lưu Á Châu có thể là người đại diện cho thế hệ đầu tiên của phong cách cởi mở, có cách nhìn thế giới quan rộng rãi, nhưng sẽ không thể không có những xung đột trong nội tâm, trong nhận thức, nhất là trong bóng đêm nói chuyện về tương lai, đây là điều dễ hiểu. Chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa yêu nước là một xung đột lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc không riêng gì Lưu Á Châu vấp phải.
Năm 2017 trong khi con đường quan lộ đang thẳng tiến, Lưu Á Châu bị cho về nghỉ hưu.
Năm 2021 bị bắt về cáo buộc tham nhũng.
Người ta nói đây là đòn đánh của Tập Cận Bình trên con đường trở thành hoàng đế đỏ, tiêu diệt hết những kẻ ngáng đường.
A.Q.
Nguồn: FB Anh Quốc