Trung Quốc trong cách nhìn nhận của dịch giả Trần Đình Hiến (Phần 2;3&4)

Anh Quoc

PHẦN 2

Trở về với công việc, cụ vừa lo vừa mừng, đòn chế độ mới hôm qua đâu có xa xôi gì.

Hiểu được Trung Quốc để có đối sách, cùng chung sống với họ, nhưng động chạm đến các vấn đề hiện tại trong quan hệ giữa hai nước cùng có Đảng cộng sản cầm quyền, cùng chí hướng xây dựng Chủ nghĩa xã hội, gọi nhau là đồng chí lôi thôi, rầy rà lắm, có khi mất mạng như bỡn.

Trong những bài viết, trong các cuộc nói chuyện trên nghị trường, cụ có một nguyên tắc không đề cập đến mối quan hệ giữa hai đảng.

Theo cụ, quan hệ giữa hai đảng chỉ có tính nhất thời, trước sau gì cũng tan vỡ theo tiến trình phát triển của thế giới dân chủ, văn minh. Điều muôn thủa vẫn là quan hệ hai nước, lợi ích quốc gia của mỗi một dân tộc. Điều ta cần hiểu Trung Quốc là hiểu được bản chất có tính lịch sử thông qua các triều đại cầm quyền.

Để làm được như vậy, không gì tốt hơn lấy lịch sử, văn học, văn hoá, tôn giáo, truyện xưa, tích cũ để khắc họa được cái bản chất, lấy chuyện của họ để nói về họ.

Về bản thân, cụ đặt mình vào địa vị như một nhà nghiên cứu về Trung Quốc, tránh bị khoác cái áo tuyên giáo, tuyên huấn… Quan hệ Ta – Tàu lúc sóng gió không sao, nhưng lúc nồng ấm họ lại liệt cụ vào phản động, chia rẽ tình hữu nghị thì hỏng một đời.

Cụ nói sử sách, các tác phẩm văn học của Trung Quốc chất thành núi, đọc hết đời này, đến đời khác cũng không hết. Nhưng Trung Quốc có mấy tác phẩm kinh điển không thể không nhắc đến, đó là Tam quốc chí, Thuỷ Hử, Tây Du ký. 

Ba tác phẩm này chính là công cụ tư tưởng để cai trị đất nước của các triều đại cầm quyền Trung Quốc xuyên suốt qua các thời đại.

Tam quốc chí tựu chung nói về “Thiên thời, địa lợi, nhân hoà”Trong đó nhất thiên thời, nhì địa lợi, ba nhân hoà.

Nhà Hán với đại diện là Tào Tháo sau này thống nhất được thiên hạ vì Tào Tháo có thiên thời, được trời trợ giúp, vì nhà Hán mới có tính chính danh, đại diện cho thiên triều, cho tầng lớp quý tộc, tinh hoa. Nhà Hán mới là thiên triều cai trị.

Nhà Đông Ngô với Tôn Quyền không thể là Trung Quốc, trong lịch sử chỉ là một nước chư hầu cho nhà Hán. Nước Ngô có địa lợi, đất đai phì nhiêu, mưa thuận gió hoà, nhưng vua Ngô không thể lấy được thiên hạ vì không có chân mệnh thiên tử, không đại diện cho Trung Quốc. Thiên triều chỉ có một thuộc về nhà Hán.

Nhà Thục, Lưu Bị dù tập hợp được gần hết anh hùng trong thiên hạ như Khổng Minh, Quan Công, Trương Phi, Triệu Tử Long… đại diện cho nhân hoà, nhưng kết cục đều chết một cách lãng xẹt. 

Lấy lòng người là một chuyện, nhưng lấy được thiên hạ là chuyện khác Nhân tính không bằng trời tính. Ý nghĩa của thiên triều là như thế. Không ai, không có thế lực nào chống được thiên triều, đó là ý trời.

Thuỷ Hử còn cụ thể rõ nét hơn. 108 anh hùng hảo Hán võ nghệ vô song tập hợp với nhau để chống triều đình, cuối cùng cũng chỉ là lũ ô hợp chết thảm. Chống lại triều đình là chết.

Tây Du ký là liều thuốc ru ngủ giai cấp cần lao, cho tầng lớp dân nghèo. Mọi thứ đói nghèo, tai ương, thảm họa chỉ là thử thách do Phật đem đến.

Thấy rượu ngon, gái đẹp đừng vập vào, toàn là yêu tinh, yêu quái do Phật phái xuống. Hãy an phận đừng nổi lòng tham, dục vọng mà kiếp sau thành con giun, con gián. Đừng oán trách, than thân trách phận, mọi khổ đau, oan trái cố mà chịu đựng vì đó chỉ là thử thách của Phật, cam chịu sẽ thành chính quả.

Thông qua lịch sử, văn học cụ muốn mọi người hiểu Trung Quốc một cách dung dị nhất, và theo cụ nó cũng an toàn nhất. Cụ bo, mình tự vỗ ngực hiểu về Trung Quốc mà “quân tử không biết phòng thân, tiểu nhân không biết phòng bị gậy” thì coi như không biết gì về Trung Quốc.

PHẦN 3

Trong một lần trò chuyện với cánh phóng viên báo chí, cụ Hiến đưa ra nhận định: Trung Quốc là nước lớn, đông dân nhưng không có tư cách nước lớn.

Theo cụ, thứ nhất được thể hiện trong hành động của họ trong vấn đề Biển Đông

Họ nghĩ rằng, không gì hay bằng việc biến Biển Đông thành ao nhà mình. Đi đi về về không cần xin phép ai. Nếu là ao nhà mình thì ai đi qua phải xin phép, thích thì cho đi còn không thích thì thôi. 

Tầm quan trọng của Biển Đông đối với Trung Quốc cũng giống như con đường sạn đạo vào đất Ba Thục ấy. Nếu bị chặn con đường ấy thì mọi việc sẽ gay go. Cho nên trong ý đồ của giới lãnh đạo Trung Quốc mưu toan độc chiếm biển Đông đã có từ lâu và đến bây giờ mới rõ rệt, họ không cần che giấu nữa. Đấy là một vấn đề về đạo lý.

Thứ hai là văn hoá ứng xử trong đối ngoại, họ hay nói một đằng làm một nẻo. Họ nói mọi quan hệ dựa trên “sự hợp tình hợp lý” nhưng không hoàn toàn như thế.

Nhìn vào các triều đại Trung Quốc, ngắn nhất là 5000 năm trở lại đây thì không có chuyện người Trung Quốc xử lý “hợp tình hợp lý”, bởi vì văn hóa dân tộc họ không xử lý như thế. Cụ thể, các triều đại phong kiến Trung Quốc đã 13 lần sang xâm lược nước ta. Trong khi Việt Nam chưa bao giờ có động thái nào gây hấn để đến mức họ đưa quân sang đánh cả. 

Lý do là vì những triều đại phong kiến Trung Quốc khi đã cảm thấy mình hùng mạnh thì thực hiện âm mưu bành trướng. Trước Hán Vũ Đế (năm 140 TCN) người đàn ông Trung Quốc chỉ gọi là nam tử hoặc nam nhi, trẻ nhỏ thì gọi là nam hài tử. Đến thời Hán Vũ đế  tên vua bành trướng khủng khiếp nhất trong các triều đại phong kiến Trung Quốc – khi người ta gọi đám quân lính đốt-cướp-hiếp-giết, ông ta lại tôn họ là những trang hảo hán. Tóm lại lịch sử Trung Quốc là bành trướng, bất cứ khi nào có điều kiện, không có điều kiện thì nấn ná đợi chờ.

Thứ ba là ỷ thế đám đông lấy thịt đè người.

Một đặc điểm của văn hóa người Trung Quốc là ý thức bầy đàn mà họ gọi là ý thức quần thể. Người Trung Quốc không tin vào khả năng cá nhân. Anh muốn cho người ta tin thì anh phải vẽ theo hướng thần thánh hóa. Như Lưu Bang chỉ là một anh trưởng thôn bình thường, tư cách cực kỳ lưu manh, hạ lưu, nhưng đến lúc làm vua thì phải dựng chuyện lúc sinh ông này, trên nóc nhà hào quang sáng rực. Có nghĩa là thượng đế “ký gửi” vào người trần này rồi.

Giữa đời nhà Thương, ngang với đời Hồng Bàng bên mình, thì tuổi thọ của người Trung Quốc chỉ là 25 tuổi, tỷ lệ giữa sống và chết là 50-50. Người Trung Quốc thời đó chống lại chuyện suy giảm dân số bằng cách đẻ nhiều. Nhưng khả năng đẻ của con người có hạn, trong ý thức của người Trung Quốc, để có thể đẻ nhiều họ đã đi tìm tới lực lượng siêu nhiên giúp đỡ. Vì vậy vật tổ đầu tiên của người Trung Quốc thờ là con cá chép. 

Bởi vì sao? Là vì một con cá chép có hai buồng trứng. Mỗi buồng trứng có thể đẻ hàng chục nghìn con. Họ nghĩ chắc là thượng đế ký gửi vào con cá chép này một sức mạnh siêu nhiên, giúp một cá thể sản sinh ra hàng vạn cá thể. Đàn ông không đẻ, họ thờ cá để phụ nữ của họ đẻ nhiều. Chuyện này để lại dấu ấn trong văn hóa: thư tình trai gái gửi cho nhau thời ấy gọi là ngư thư (thư cá).

Từ đó họ hình thành ý thức chỉ có số đông mới giải quyết được mọi chuyện. Với người Trung Quốc, khi đã có số đông rồi thì ỷ vào số đông đó để chèn ép người khác. Tào Tháo từng chỉ roi xuống sông Chương: Quân ta chỉ cần ném roi ngựa xuống sông cũng đủ lấp. Đấy là tư tưởng số đông. Đến thời ông Mao Trạch Đông thì cũng từng nói: Mỗi người dân Trung Quốc chỉ cần nhổ một bãi nước bọt đã đủ lấp eo biển Đài Loan!

Và bây giờ Trung Quốc huy động 23.000 tàu cá xô ra biển Đông thì là tư tưởng gì? Chiến thuật gì? Là chiến thuật lấy thịt đè người.

Về lý không thắng được Việt Nam, không thắng được thiên hạ chuyện biển Đông không phải của Trung Quốc thì bây giờ dùng số đông, dùng chính sách tằm ăn rỗi. Ba bốn ngàn năm trước đã vậy, bây giờ vẫn như vậy…

Khi hỏi cụ về Khổng Tử, cụ đi thẳng vào vấn đề.

Người Trung Quốc vẫn hay nói về Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín… Những cái đó bây giờ miễn bàn. Không cần bàn thêm gì cả bởi vì tất cả những quan niệm đó đều là bịp.

Nhân là thương người. 

Nghĩa là giúp người. 

Lễ là trọng người. 

Trí là hiểu người. 

Tín là tin người và được người tin. 

Để nói về 5 điều này trong xã hội Trung Quốc thì xin được mượn lời đại văn hào Lỗ Tấn thế này: “Các giai cấp thống trị Trung Quốc trong lịch sử dùng đạo Khổng (tức là Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín) để làm hòn đá gõ cửa nhà người ta. Khi chủ nhà mở cửa cho vào rồi thì nó lấy hòn đá đập vào đầu chủ nhà.

Ngày xưa còn giả vờ liêm sỉ đã như thế, huống hồ bây giờ mặt dày, bất cần. Trung Quốc không sợ dân mình chửi, có biết xấu hổ đâu mà sợ!

Cụ nói: Cái điều tôi nói ở trên không phải ghét họ mà nói, gần đây ở Trung Quốc có tay thượng tướng Tư lệnh không quân Trung Quốc có tên là Lưu Á Châu có nhiều bài viết, nói chuyện bộc bạch tự nhận xét, đánh giá mọi mặt về con người Trung Quốc, đất nước Trung Quốc, các bạn tìm mà đọc. Họ nói về họ xem có đúng không.

Thượng tướng Lưu Á Châu nói gì về Trung Quốc, xin đọc tiếp ở phần sau.

PHẦN 4

Nghe lời cụ Hiến tôi về tìm hiểu về Lưu Á Châu, xem ông ta nhìn nhận Trung Quốc như thế nào? Trung Quốc và ta có nhiều điểm tương đồng từ văn hoá, tôn giáo, đến thể chế chính trị… ta có thể thấy ta trong đó.

Quả là không lãng phí thời gian, khi đọc những bài của Lưu Á Châu viết. 

Chúng ta không thích Trung Quốc, có thể nói người Việt ghét Trung Quốc, nhưng một nghịch lý xảy ra, dân ghét Trung Quốc nhưng Đảng ta và Đảng Trung Quốc lại gắn bó với nhau, như vậy lợi ích Đảng và lợi ích dân tộc có mâu thuẫn với nhau không? Tại sao có mâu thuẫn ấy?

Mâu thuẫn này có phải là nỗi đau, đẩy dân tộc Việt Nam dần tụt hậu?

Ta với Trung Quốc trong thời kỳ hiện đại cùng theo học thuyết Mác – Lê Nin, có quan hệ đồng chí với nhau chính thức từ năm 1950, nhưng đến năm 1979 tức là gần 30 năm sau, khi Trung Quốc xâm lược ta ở biên giới lúc ấy lãnh đạo của ta mới giật mình, không ai trong số họ hiểu về Trung Quốc. 

Khi không hiểu sẽ dẫn đến hai thái cực, một là sợ thì lệ thuộc, ghét thì ghét thậm tệ, dối trá thủ đoạn, tráo trở với nhau. Hai là không sợ thì điên cuồng chống, mất hết cả lý trí, tổn hại xương máu vô ích rất lớn.

Ta muốn cải thiện quan hệ với Trung Quốc, thử xem trong số những lãnh đạo của ta ai nghiên cứu Trung Quốc, hiểu về Trung Quốc? Xin khẳng định là không. Chưa có lãnh đạo nào từ cấp Trung ương trở lên có bài viết nghiên cứu về Trung Quốc, tâm lý chung rất sợ động chạm đến Trung Quốc. Vậy ta sợ Trung Quốc, ghét Trung Quốc, yêu Trung Quốc, không sợ Trung Quốc căn cứ vào cái gì? 

Trong quan hệ với Trung Quốc, thẳng thắn mà nói, Trung Quốc đang dắt mũi ta, nói là dắt mũi không phải tự miệt thị, kẻ kém sẽ bị người giỏi chi phối đó cũng là lẽ tất nhiên.

Chính vì vậy ta cần phải hiểu Trung Quốc, xem Trung Quốc thực sự thế nào, lúc ấy ta có yêu, ghét, sợ hay không sợ, bạn thù mới có cái lý của nó.

Trong phần này xin trích lược những gì từ những bài viết của Lưu Á Châu được cho là đáng quan tâm nhất cho mọi người cùng suy ngẫm. Trung Quốc có thực sự là con ngáo ộp, có đáng sợ không? 

VỀ VĂN HOÁ

Tất cả mọi vấn đề đều hướng về chế độ, mà mọi vấn đề về chế độ đều hướng về văn hóa, song tất cả mọi vấn đề văn hóa đều hướng vào tôn giáo.

Tôn giáo quyết định văn hóa mà văn hóa thì quyết định tính cách dân tộc; tính cách dân tộc lại quyết định số phận dân tộc.

Xin nêu thí dụ chống tham nhũng. Trừng trị tham nhũng không thể diệt được tận gốc nạn tham nhũng. Có một biện pháp là hoàn thiện chế độ xã hội, mà phương pháp căn bản là bắt tay từ văn hóa. Thí dụ biện pháp “Lương cao nuôi dưỡng sự liêm khiết”. Ở Trung Quốc lương cao chưa chắc đã có thể nuôi dưỡng được sự liêm khiết. Tại sao thế?

Văn hóa Trung Quốc có màu sắc “văn hóa gia đình” rất nặng. Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại [Trong 3 điều bất hiếu, điều lớn nhất là không có con nối dõi]. Càng nhiều con cháu càng lắm phúc. Đời cha nhất định phải để dành tiền của cho con cháu. Điều này khác hẳn văn hóa phương Tây. Những kẻ làm cha như chúng ta, lương bổng bản thân có cao đến đâu cũng vẫn muốn để dành cho con, bởi thế người ta vẫn cứ tham. Đây cũng là một nguyên nhân hình thành “văn hóa hối lộ” trong quan trường Trung Quốc.

Sự hình thành văn hóa Trung Quốc có 3 nhân tố chủ yếu: thứ nhất là hoàn cảnh sinh tồn; thứ hai là tôn giáo; thứ ba là chính sách ngu dân.

1. Hoàn cảnh sinh tồn

Từ xưa tới nay, số dân trên mảnh đất Trung Quốc này đều nhiều hơn châu Âu. Đàn bà Trung Quốc bị “văn hóa gia đình” biến thành máy đẻ.

Châu Âu có diện tích bình quân đất đai trên đầu người cao hơn Trung Quốc rất nhiều thế mà họ vẫn cảm thấy chật hẹp, không thở hít được nữa, phải khai thác vùng đất mới, bởi thế mà có việc khám phá các đại lục mới.

Người Trung Quốc thì tranh đấu trong hoàn cảnh ác liệt này. Phép sinh tồn rất khắc nghiệt. Nhưng khi nói về hình thành văn hóa mà chỉ nhấn mạnh hoàn cảnh là chưa đủ. Hoàn cảnh xấu tạo nên một loại văn hóa không thành công; hoàn cảnh tốt cũng vẫn có thể tạo dựng nên một loại văn hóa không thành công. Cần xem xét văn hóa Trung Quốc từ hai mặt. Từ xưa Trung Quốc đã có thảm thực vật rất tốt, khắp nơi là rừng. Vùng Sơn Tây có nhiều than đá như thế chứng tỏ thời cổ rừng ở đấy rất tốt. Do có quá nhiều rừng nên người ta chẳng cần đi quá xa nơi ở cũng có thể kiếm được gỗ, vì vậy người ta dùng gỗ để làm nhà, vừa đơn giản vừa đỡ mất công. Lâu ngày kiến trúc Trung Quốc bèn trở thành kiến trúc có hình thức kết cấu thổ mộc.

Khi tiến sang thời đại văn minh, các dân tộc châu Âu có môi trường ác liệt hơn Trung Quốc rất nhiều: ít rừng, lắm đá. Muốn làm nhà, họ chỉ có cách lấy đá trên núi mà làm. Lâu ngày nền kiến trúc phương Tây trở thành kiến trúc gạch đá. Qua nhiều nghìn năm, rừng của chúng ta bị đốn hết, các kiến trúc thổ mộc sụp đổ. Kiến trúc kết cấu gạch đá của phương Tây thì giữ lại được, rừng của họ cũng giữ được. Tại Ý, hiện nay vẫn thấy các kiến trúc có từ hai nghìn năm trước, tương đương đời nhà Tần nhà Hán. Tại Trung Quốc hiện nay cả đến kiến trúc đời nhà Minh cũng hiếm thấy.

2. Tôn giáo

Trung Quốc có ba tôn giáo chính là Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo (tôi gọi Nho học là một loại tôn giáo). Ba tôn giáo này có trách nhiệm không thể thoái thác đối với với sự hình thành trạng thái tâm lý và đạo đức ngày nay của người Trung Quốc. Lịch sử cho thấy ba tôn giáo trên căn bản không thể chấn hưng được dân tộc Trung Hoa.

So sánh đối chiếu Ki Tô giáo với tôn giáo của Trung Quốc.

Văn hóa Trung Quốc dạy chúng ta “Nhân chi sơ, tính bản thiện” [con người lúc mới ra đời có bản tính lương thiện]. Tôn giáo của phương Tây thì ngược lại, cho rằng con người sinh ra đã là xấu [nguyên văn chữ Hán: ác], bản tính con người cũng xấu. Bởi vậy, tôn giáo phải hạn chế anh, bắt anh suy ngẫm về chính mình. Văn hóa phương Tây cho rằng loài người có tội tổ tông [Sáng Thế Ký trong Cựu ước chép chuyện thủy tổ đầu tiên của loài người là ông Adam và bà Eva không nghe lời răn của Thượng Đế, đã ăn vụng trái cấm, tức đã phạm tội]. Lòng người đen tối.

Trong số các đồng chí có người đã trải qua “Cách mạng Văn hóa”, xin hỏi cái đen tối nhất ở đâu? Cái đen tối nhất thì ở trong lòng người [Trong Cách mạng Văn hóa, vì để chứng tỏ sự trung thành với “minh chủ”, nhiều người Trung Quốc đã phạm những tội lỗi đạo đức khó có thể tưởng tượng, thí dụ bắn giết nhau, hành hạ thể xác và tinh thần vô cùng dã man chính bạn bè, đồng chí, đồng đội, đồng sự của mình; vợ từ bỏ chồng, con từ bỏ cha chỉ vì chồng, cha bị vu cáo là chống Đảng; có Hồng Vệ Binh cắt họng đồng chí mình dám nói sự thật…]. Tâm hồn mỗi người đều có mặt vô cùng bẩn thỉu. Văn hóa phương Tây mổ xẻ, hé lộ nó ra, trưng nó ra. Phê phán nó, kiềm chế nó. Văn hóa phương Đông thì ôm ấp nó, nuôi dưỡng nó. Nhà thờ ở phương Tây có phòng xưng tội [nguyên văn: sám hối]. Người ta vào nhà thờ trình bày với thánh thần các thứ trong tâm hồn mình.

Nói cho thần thánh nghe mọi cái xấu xa bẩn thỉu của mình thì người ta thấy nhẹ nhõm. Tâm hồn người ta được rửa sạch. Hồi sang Mỹ tôi có vào nhà thờ ngồi hẳn một ngày trời. Tôi phát hiện thấy một cảnh rất thú vị: mọi người ai nấy khi vào nhà thờ thì mặt mày ủ ê, khi đi ra thì sắc mặt thư thái nhẹ nhõm. Về sau tôi mới dần dà hiểu được bí quyết của chuyện ấy. Lâu ngày, người ta trở thành thành con người lành mạnh, con người có tâm trạng và tâm hồn đặc biệt kiện toàn. Con người ai cũng có ham muốn. Nhưng người ta phải kiềm chế ham muốn của mình, ai nấy ắt phải tự mình (chứ không phải người khác) kiềm chế bản thân.

Người Trung Quốc không biết kiềm chế mình, không biết tra khảo bản thân, thế là người ta đi kiềm chế kẻ khác, tra khảo kẻ khác. Quất roi và tra khảo bản thân là chuyện đau khổ. Chỉ khi nào trong lòng mình mãi mãi có tín ngưỡng, có tín ngưỡng vĩnh hằng với thần thánh, thì mới có thể làm được như thế.

Rất nhiều đồng chí đã đi thăm nhà thờ ở phương Tây. Ở đấy thánh thần xuất hiện với hình ảnh đầm đìa máu, chịu khổ chịu nạn. Jesus bị đóng đinh trên giá chữ thập. Đức Mẹ không đổ máu nhưng rơi lệ. Đấy thực sự là hóa thân của con người, là hóa thân của sự khổ nạn và tư tưởng của con người. Thần thánh trong tôn giáo phương Tây nhìn vào tựa như thần thánh, thực ra là con người. Cái chết của Jesus đã hoàn tất việc ngài lột xác từ thánh thần thành con người. Chỉ con người mới chết.

Nhưng thánh thần trong các đền miếu của Trung Quốc thì mới là thánh thần. Bạn hãy xem hình ảnh các vị thần thánh ấy: bụng chảy xệ, nét mặt chẳng lo nghĩ gì sất, nhăn nhở cười cợt, thụ hưởng của thờ cúng. Vị nào vị ấy ăn đến béo rụt đầu rụt cổ.

Người phương Tây đến nhà thờ là để sám hối. Chúng ta đi đền đi chùa là để hối lộ. Chẳng phải thế hay sao? Vì muốn làm được một chuyện gì đây, chúng ta khấn vái thần thánh, bỏ tiền mua mấy nén hương thắp lên hoặc bày lên mâm những thứ dân gian thường ăn như trái cây gì gì đó, rồi im lặng cầu nguyện. Như thế chẳng phải hối lộ thì là gì?

Người phương Tây đến nhà thờ để giải thoát nỗi khổ về tinh thần. Chúng ta lên đền chùa để giải quyết nỗi khổ trong đời sống thực tế. Thần thánh trong tôn giáo phương Tây luôn luôn chịu khổ còn nhân dân thì không chịu khổ. Thần thánh trong tôn giáo phương Đông thì hưởng thụ, còn dân chúng thì chịu khổ. Đây là khác biệt lớn nhất giữa tôn giáo phương Đông với phương Tây.

Ở nước ngoài, nhà thờ bao giờ cũng xây dựng tại trung tâm đô thị, gần gũi với dân. Đền chùa Trung Quốc thì bao giờ cũng xây dựng trong rừng sâu núi cao, xa rời dân. Tôi từng nói người Trung Quốc về cơ bản là một dân tộc không có tín ngưỡng. Nói không có tín ngưỡng không phải là không có hình thức tín ngưỡng. Ngược lại, những thứ người Trung Quốc tín ngưỡng thì phức tạp nhất, người ta tin cả các đại sư khí công. Cái quái gì cũng tin lại chính là chẳng tin cái gì hết. Trong lòng người Trung Quốc không có vị trí của một vị thần thánh vĩnh hằng. Nói sâu một chút, tức là chẳng có sự mưu cầu theo đuổi tinh thần văn hóa có tính tận cùng! Loại người đó không mở rộng phạm vi quan tâm của mình ra tới bên ngoài gia đình, thậm chí cá nhân. Nếu mở rộng sự quan tâm ấy ra thì nhất định sẽ là làm hại kẻ khác. Một dân tộc như vậy sao lại không “năm bè bảy mảng” kia chứ?

Tại phương Tây, khi trên đường có một chiếc xe hỏng thì hầu như tất cả các xe khác đều dừng lại, người ta đến hỏi anh có cần giúp đỡ gì không. Tại Trung Quốc thì hầu hết xe đều bỏ đi, khó khăn lắm mới có người dừng xe hỏi anh, có lẽ tôi còn ngờ vực, anh làm gì thế? Anh có mục đích gì.

Phương Tây đã thắng trong cuộc cạnh tranh với phương Đông cả nghìn năm nay. Tôn giáo phương Tây đã thắng trong cuộc cạnh tranh với tôn giáo phương Đông. Thắng lợi của tôn giáo là thắng lợi thế nào? Tôi cho rằng đó là một loại thắng lợi về tinh thần. Không có tín ngưỡng thì không có sức mạnh tinh thần. Cái chúng ta thiếu lại chính là cái người ta có.

Hãy nói về chuyện xây đền chùa. Phương Tây khi xây đền chùa thường là bạt hẳn một quả đồi. Đó là một kiểu khí thế, một kiểu dũng khí đấu tranh với thiên nhiên. Người Trung Quốc xây đền chùa thường hay xây trong núi sâu. Xem ra là hòa nhập cùng núi rừng thành một khối, trên thực tế là một kiểu đầu cơ. Có một bức tranh cổ tên là Ngôi chùa cổ trong núi sâu, rất nổi tiếng, nhưng nhìn vào tranh chẳng thấy một bức tường hay một viên ngói nào cả. Bức tranh vẽ gì vậy? Một lối mòn chạy giữa hai quả núi, một nhà sư quẩy đôi thùng đi gánh nước. Rốt cuộc bức họa có ý gì? Là nói ngôi chùa cổ trong núi sâu, chùa và núi hòa làm một với nhau. Chúng ta khẳng định rằng ý của bức họa rất khôn khéo.

Người Trung Quốc có tâm lý đầu cơ rất nặng, ai cũng chỉ muốn không làm mà hưởng. Ngày nay, trong thời đại cải cách mở cửa, có biết bao nhiêu người lao vào biển thương mại, ai nấy đều nghĩ “Ngày mai đến lượt mình [làm giàu] rồi”, Họ muốn làm cái bộ phận “Để một số người giàu lên trước” ấy. Sau nhiều năm được giáo dục “Vì nhân dân phục vụ” mà họ lại đều muốn trở thành đối tượng được phục vụ.

Người Trung Quốc trước đời Tần thì không như thế. Sau đời Hán, đặc biệt sau khi Lưu Triệt [tức Hán Vũ Đế, 156-87 trước CN] độc tôn Nho thuật [tức Nho học, Nho giáo] thì người Trung Quốc đã thay đổi.

Tôi rất thích đọc bộ Sử ký [của Tư Mã Thiên]. Đọc hết sách này mà chẳng thấy có đoạn nào viết về những kẻ phản bội. Ngày nay chúng ta có biết bao nhiêu kẻ phản bội! Thời xưa có rất ít kẻ cáo giác. Thời nay thì khắp nơi đều có!

Chính ủy Đại học công trình không quân Vương Hồng Sinh đến thăm tôi. Hồi ở Ban chính trị không quân, anh ấy và tôi là chiến hữu với nhau. Hai chúng tôi nhắc đến một chuyện thế này: đơn vị Vương Hồng Sinh có một anh cán sự, là người được lãnh đạo rất coi trọng. Một đồng sự của anh ta ngủ với gái; vị cán sự ấy bèn vác ghế đến ngồi lỳ tận nửa đêm ngoài cửa nhà người đồng sự, cho tới lúc bắt được hai người kia hủ hóa với nhau. Anh cán sự được biểu dương. Tôi than thở căm tức mãi không thôi. Tôi bảo: sức mạnh nào đã chi phối anh ta ngồi trong bóng đêm lâu đến thế? Tuyệt đối là một loại ý thức phạm tội.

Thời xưa, Bảo Định, Dịch Thủy là nơi sinh ra những Kinh Kha, Cao Tiệm Ly, Điền Quang, Phàn Ư Kỳ [bốn nhân vật anh hùng nổi tiếng trong vụ ám sát không thành Tần Thủy Hoàng]. “Gió vù vù, hề, sông Dịch lạnh ghê, Tráng sĩ một đi, hề, không trở về” [câu thơ Kinh Kha cảm tác khi qua sông Dịch trên đường đi mưu sát Tần Thuỷ Hoàng]. Trong kháng chiến chống Nhật, phủ Bảo Định có nhiều Hán gian [nguyên văn: Nhị cẩu tử, tên thời trước gọi cảnh sát] nhất. Hồi làm ở Hội Nhà văn tôi có đến Bảo Định sưu tầm dân ca. Một ông nông dân hát cho tôi nghe một bài ca ngày xưa: “Năm ấy giặc Nhật đến làng, chúng tôi vác súng đi lính. Về sau tôi mới biết ông ta đi lính gì. Lính ngụy.

Ở nước ngoài không phải là không có kẻ phản bội, nhưng ít hơn nhiều so với Trung Quốc. Sức mạnh nào đã tác động đến người ta? Sức mạnh tinh thần.

Năm 1986 tôi sang Mỹ. Đêm khuya ra đường, đèn tín hiệu giao thông bật đỏ, chẳng thấy chiếc xe nào chạy cả, tất cả xe đều tự động dừng lại ở ngã tư. Tôi không hiểu, bảo người Mỹ sao mà ngốc thế nhỉ. Về sau tôi mới biết đấy là sự tự kiềm chế của họ. Kiềm chế bản thân là cứu vớt tâm hồn. Việc nhỏ đã thế, việc lớn lại càng thế.

Người Nhật nói, trận địa Trung Quốc rất dễ bị chọc thủng. Lê Minh [triết gia Trung Quốc đương đại nổi tiếng là “khùng”, tác giả sách “Vì sao người TQ ngu thế?”] nói rất hay: “Tôn giáo Trung Quốc biến dân chúng thành bầy cừu”.

Đều là cố thủ trận địa, người phương Tây tuy cũng sợ nhưng họ có thể kiềm chế bản thân. Chúng ta thì sao? Trước hết là mong người khác làm bia đỡ đạn. Thấy người khác bỏ chạy thì nghĩ, vì sao mày chuồn? Tao cũng chuồn. Mày đi lính ngụy no nê cơm rượu, tao cũng đi. Mày tham ô, tao cũng tham ô. Tao không chịu kém mày. Tại các nước phương Tây không phải không có chuyện ăn hối lộ nhưng nhìn chung ít hơn chúng ta. Khi nhận hối lộ, lương tâm và tinh thần người ta sẽ ràng buộc họ.

Phó Chủ tịch Trì Hạo Điền [Thượng tướng, sinh 1929, thời gian 1998-2003 làm Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương kiêm Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc] có kể một chuyện để lại ấn tượng rất sâu sắc đối với tôi. Ông kể, trong thời kỳ chống Nhật vùng căn cứ địa Giao Đông có bảy tám tên lính Nhật vác cờ mặt trời [tức quốc kỳ Nhật] đi càn, ba bốn chục nghìn quân dân căn cứ địa bỏ chạy hết. Sói đuổi cừu mà.

Trên xe buýt một cô gái bị cướp, xe đầy ắp người mà chẳng ai ho he. Cô gái xúc động thốt lên: “Cha tôi kể năm xưa một tên giặc Nhật cai quản cả một huyện của chúng ta. Ngày ấy tôi không tin, bây giờ thì tin rồi”.

Hồi “Cách mạng văn hóa”, ga xe lửa lúc nào cũng đông nghịt. Khi tàu đến, người ta chen nhau ùa vào ga lên tàu. Một cô nhân viên soát vé nói: Các ông bà người đông thế này, một đứa con gái như tôi không thể nào giữ được ai, mà tôi cũng chẳng muốn làm thế. Bắt giữ ai nào? Giữ người đầu tiên chen vào. Thế là ai nấy ngoan ngoãn xếp hàng.

3. Kẻ thống trị các thời kỳ trước kia thực hành chính sách ngu dân

Tôn giáo Trung Quốc có mấy loại, tuy khác nhau về tư tưởng nhưng trên mặt chủ nghĩa chống hiểu biết hoặc chủ trương ngu dân thì đều như nhau. Chính vì thế mà tôn giáo mới được tầng lớp thống trị coi trọng. Dưới sự giáp công của văn hóa tôn giáo và chính sách ngu dân của bọn thống trị, người Trung Quốc hình thành quần thể như ngày nay. Người Trung Quốc giỏi nhất về chuyện ca tụng công đức, thứ nhì là tố giác, thứ ba là giở thủ đoạn, cuối cùng là khôn ngoan bo bo giữ mình [nguyên văn: minh triết bảo thân].

Người Mãn Thanh thống trị Trung Quốc thành công nhất. Họ hiểu rõ đặc tính quan trường của người Trung Quốc: dốc lòng trung thành với cá nhân, không trung thành với nhà nước. Ai có vú thì người ấy là mẹ [Ai có sữa cho bú thì nhận người ấy làm mẹ. Ý nói vì tham lợi mà vong ân bội nghĩa, ai cho mình quyền lợi thì theo người đó].

Trong việc thống trị ba dân tộc Hán, Mông, Tạng ở Trung Quốc, người Mãn Châu nhằm vào các đặc điểm khác nhau của ba dân tộc này để sử dụng những mánh khóe khác nhau. Người Tây Tạng tin Phật Giáo, triều đình nhà Thanh cho dựng ngay tại Thừa Đức [1 trong 10 địa điểm danh lam thắng cảnh nổi tiếng nhất Trung Quốc, cách Bắc Kinh 180 km] một ngôi chùa phỏng theo kiểu chùa Tây Tạng, đón Lạt Ma về kinh đô làm ông lớn. Người Mông Cổ nhanh nhẹn dũng mãnh thì dùng thủ đoạn hôn nhân, gả con gái hoàng tộc cho vương công Mông Cổ. Mày đẻ ra con trai thì nó là cháu ngoại tao. Đối với người Hán thì dùng khoa cử. Người Hán có tật thích làm quan. Chỉ cần cho mày làm quan, tựa như quẳng khúc xương cho con chó, là mày cúi đầu cụp tai ngoan ngoãn nghe theo.

Hồi tôi sang Mỹ, thầy hướng dẫn tôi là người chuyên nghiên cứu về Mao Trạch Đông. Ông ấy cho rằng trong đời mình, Mao Trạch Đông tổng cộng làm được 31 việc:

1- Năm 1921 vào Đảng; 2- Năm 1925 chuyển sang theo nông dân; 3- Năm 1923-1927 vào Quốc dân đảng; 4- Năm 1928 xây dựng căn cứ địa ở nông thôn; 5- Xây dựng Khu Xô-viết Giang Tô; 6- Sự kiện Phú Điền [sự kiện nội bộ đảng CSTQ thanh trừng giết nhầm nhiều cán bộ của đảng năm 1930 tại căn cứ địa Phú Điền tỉnh Giang Tô]; 7- Năm 1925 đi trường chinh; 8- Hội nghị Tuân Nghĩa [hội nghị mở rộng Bộ chính trị ĐCSTQ họp tháng 1/1935 tại Tuân Nghĩa tỉnh Quý Châu, xác lập quyền lãnh đạo của Mao Trạch Đông; được coi là bước ngoặt của cách mạng Trung Quốc]; 9- Tranh giành quyền lãnh đạo Đảng CSTQ với Trương Quốc Đào; 10- Năm 1937 hợp tác với Quốc dân đảng; 11- Kết hôn với Giang Thanh; 12- Chỉnh phong ở Diên An; 13- Đại hội VII xác lập tư tưởng Mao Trạch Đông; 14- Giành chính quyền trên cả nước; 15- Tiến hành cải cách ruộng đất; 16- Năm 1950 tham gia cuộc chiến tranh Triều Tiên; 17- Sự kiện Cao Cương [nguyên Phó Chủ tịch nước CHND Trung Hoa; năm 1954 bị kết tội chia rẽ đảng, bị kỷ luật, tự tử chết 1954]; 18- Tam phản ngũ phản [hai phong trào trong thời gian cuối 1951 đến 10/1952. Tam phản: chống tham ô, lãng phí và quan liêu; Ngũ phản: trong ngành công thương nghiệp tư doanh chống hối lộ, trốn thuế và lậu thuế, lấy cắp tài sản nhà nước, làm ăn gian dối, đánh cắp tình báo kinh tế]; 19- Công tư hợp doanh và hợp tác xã nông nghiệp; 20- Chống phái hữu; 21- Đại Nhảy vọt; 22- Hội nghị Lư Sơn [hội nghị mở rộng Bộ chính trị và hội nghị lần 8 trung ương ĐCSTQ, cách chức Bộ trưởng Quốc phòng của Bành Đức Hoài]; 23- Cắt đứt quan hệ với Liên Xô; 24- Chuẩn bị đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ; 25- Phát động cách mạng văn hóa; 26- Giúp Việt Nam chống Mỹ; 27- Xác định Lâm Bưu là người kế vị; 28- Tan băng quan hệ với Mỹ; 29- Nâng đỡ Nhóm Bốn Tên; 30- Đánh đổ Đặng Tiểu Bình; 31- Bố trí Hoa Quốc Phong làm người kế vị.

Tôi nghiên cứu kỹ 31 sự việc này, phát hiện thấy trong đó có 20 sự việc liên quan tới hủy hoại tinh thần và đạo đức con người. Đến năm 1966, cuối cùng Mao Trạch Đông phát động cuộc Cách mạng Văn hóa chưa từng có trong lịch sử, làm cho kinh tế Trung Quốc đi tới bờ vực sụp đổ, càng làm cho phẩm chất đạo đức của nhân dân toàn quốc hạ thấp xuống tới mức đáng sợ, nhà nước mấy lần sa vào tình cảnh muôn đời không phục hồi được.

Tinh thần là cái gốc lập mệnh của mỗi con người, là cái gốc lớn mạnh của một dân tộc, cái gốc sinh tồn của một quốc gia. Cái gì cũng có thể không có nhưng tinh thần thì không thể không có.

Cách đây ít lâu khi xuống sư đoàn 33 Không quân, tôi có đến thăm trại tập trung Tra Tử Động. Nhiều liệt sĩ như Chị Giang [tên thân mật gọi Giang Trúc Quân, nữ liệt sĩ cách mạng Trung Quốc, 1920-1949] đã hy sinh tại đây. Hồi ấy nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã thành lập. Chị Giang đang ở trong tù mà vẫn thêu một lá cờ đỏ năm sao. Chị chưa biết mẫu của cờ đỏ năm sao như thế nào, cho nên đã thêu ngôi sao lớn nhất vào chính giữa lá cờ, 4 ngôi sao nhỏ ở 4 góc. Khi bọn Quốc dân đảng chuẩn bị làm cuộc đại tàn sát tù nhân thì Quân Giải phóng đã tiến tới gần Bạch Thị Dịch. Đội du kích Hoa Doanh Sơn bắt được liên lạc với Quân đoàn 47. Đội du kích nói: Các đồng chí mau tiến quân đi, trại tập trung Tra Tử Động sắp hành quyết các chính trị phạm. Nhưng Quân Giải phóng cho rằng đội viên du kích Hoa Doanh Sơn là tên lừa đảo, có thể là bẫy kẻ địch cài, cho nên họ không hành động. Kết quả là cuộc tàn sát bắt đầu. Các liệt sĩ hiên ngang đi tới chỗ chết.

Có người nói, thật đáng tiếc, các liệt sĩ ấy đã không nhìn thấy nước Trung Quốc Mới. Mục tiêu phấn đấu mà họ theo đuổi sắp được thực hiện thế mà họ lại không được nhìn thấy.

Tôi bảo anh nhầm rồi. Nói thực lòng, họ vô cùng hạnh phúc. Tín ngưỡng trong lòng họ sắp được thực hiện, chết vào lúc đó không phải là nỗi đau mà là một niềm hạnh phúc. Những người còn sống sót mới thực sự đau khổ. Họ nhìn thấy nước Cộng hòa nhân dân được thành lập, sau đó là các phong trào chống phái hữu, tam phản ngũ phản, “Cách mạng Văn hóa”, những người bị cái đảng mà mình hiến dâng tính mạng hành hạ mình chết đi sống lại ấy mới là những người đau khổ nhất. Chết, chết không được. Sống, sống không thành. Cuối cùng để mất niềm tin và tín ngưỡng, chẳng khác gì cái thây ma biết đi.

Đảng viên cộng sản mất tín ngưỡng thì là cái gì? Hãy nhìn bọn quan tham nhũng hiện nay thì khắc rõ. Bọn chúng tên nào cũng sợ chết, quan càng to càng sợ chết. Thứ trưởng Bộ Công an Lý Kỷ Châu khi bị bắt còn hung hăng lắm. Hắn nói: “Nếu tôi có vấn đề thì phải đem chém đầu một nửa Bộ Chính trị !” Đến lúc chuẩn bị đưa đi xử bắn, hắn quỳ xuống van xin: “Xin cho tôi một con đường sống”. 

(Còn tiếp)

A.Q.

Nguồn: FB Anh Quoc

 

 

This entry was posted in Trung Quốc. Bookmark the permalink.