Đấu trường: Đông Nam Á trong thời đại của cạnh tranh nước lớn

Bilahari Kausikan

Nguyễn Thành Long biên dịch

Khi tôi còn là một nhà ngoại giao của Singapore, tôi đã từng hỏi một người đồng cấp Việt Nam rằng sự thay đổi lãnh đạo sắp tới ở Hà Nội có ý nghĩa như thế nào đối với quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc. “Mọi nhà lãnh đạo Việt Nam,” ông ấy trả lời, “phải hòa hợp với Trung Quốc, mọi nhà lãnh đạo Việt Nam phải đứng lên chống lại Trung Quốc, và nếu ông ta không thể làm cả hai điều cùng một lúc thì ông ta không xứng đáng là lãnh đạo”.

Khi Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden bắt đầu nhiệm kỳ của mình, đội ngũ của ông ấy cũng nên chú ý đến điều đó. Đông Nam Á là tâm điểm của cuộc cạnh tranh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Ở những mức độ khác nhau và theo những cách riêng của mình, mỗi quốc gia trong khu vực đã áp dụng cách tiếp cận đó đối với Trung Quốc – và cả với Hoa Kỳ.

Đông Nam Á luôn là một ngã tư chiến lược, nơi lợi ích của các cường quốc giao thoa nhau và đôi khi va chạm. Bản chất đây là một khu vực đa cực, chưa bao giờ chịu sự thống trị của bất kỳ thế lực bên ngoài nào, ngoại trừ một thời gian ngắn bị Nhật Bản chiếm đóng trong Thế chiến II. Sự cạnh tranh ngày nay giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ chỉ là một giai đoạn khác của một động lực kéo dài hàng thế kỷ đã gắn chặt bản năng thực hiện đồng thời các sách lược phòng bị nước đôi, cân bằng và phù thịnh vào DNA chính trị của khu vực.

Người Mỹ dường như khó có thể hiểu được điều này. Có một xu hướng mạnh mẽ muốn xem xét khu vực qua lăng kính nhị phân: nếu khu vực không “tự do”, thì đây là khu vực “đỏ” (chủ nghĩa cộng sản); nếu nền dân chủ không tiến bộ, khu vực sẽ thụt lùi; nếu Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) không giữ chặt Hoa Kỳ, tổ chức này có nguy cơ bị Trung Quốc thâu tóm. Suy nghĩ vô cùng đơn giản này đã dẫn đến hàng loạt thất bại về chính sách, trong đó thảm hại nhất là Chiến tranh Việt Nam.

Ba cuốn sách nổi bật sau đưa ra những điều chỉnh kịp thời đối với quan điểm sai lầm này thông qua phân tích từng quốc gia về tình trạng mâu thuẫn trong tư tưởng và sự lo lắng trong nhìn nhận của người Đông Nam Á về vai trò của Trung Quốc trong khu vực. Cuốn Under Beijing’s Shadow của Murray Hiebert là tác phẩm chi tiết và tinh tế nhất trong ba tác phẩm. Giống như Hiebert, Sebastian Strangio tập trung vào mối quan hệ của Trung Quốc với các nước trong khu vực trong In the Dragon’s Shadow, trong khi David Shambaugh viết cuốn Where Great Powers Meet xoay quanh chủ đề cạnh tranh Mỹ-Trung.

Quy mô và sức nặng kinh tế của Trung Quốc chắc chắn gây ra sự lo lắng cho các nước láng giềng Đông Nam Á, những lo lắng đã được thúc đẩy bởi chính sách đối ngoại hiếu chiến của Chủ tịch Tập Cận Bình. Nhưng những lo ngại đó phải được cân nhắc trong bối cảnh sự cần thiết của việc duy trì các mối quan hệ chính trị và kinh tế với cường quốc lớn nhất châu Á. Không một quốc gia nào ở Đông Nam Á sẽ chấp nhận một mối quan hệ duy nhất với Trung Quốc hoặc Hoa Kỳ hoặc bất kỳ cường quốc nào khác. Không quốc gia nào sẽ chọn một phe cho mình.

Không phải vì một thứ hào nhoáng tức thời

Nhiều nhà quan sát bên ngoài thường suy đoán – có thể là vô tình nhưng vẫn mang tính xúc phạm – rằng tất cả các quốc gia trong khu vực đều tham nhũng một cách khủng khiếp, vô cùng ngây thơ hoặc có đầu óc đơn giản đến mức họ sẽ bán lợi ích quốc gia của mình cho một thứ hào nhoáng tức thời nhưng ít giá trị lâu dài. Tác giả của những cuốn sách trên không mắc phải sai lầm đó. Không thể coi nhẹ các mối quan hệ kinh tế, nhưng không thành viên ASEAN nào xây dựng mối quan hệ của mình với Trung Quốc chỉ trên cơ sở thương mại và đầu tư. Chủ nghĩa dân tộc vẫn là một lực lượng chính trị mạnh mẽ.

Hiebert đặc biệt thành thạo trong việc vạch trần những dòng chảy ngầm, mà ông mô tả một cách khéo léo là “sự pha trộn phức tạp của hy vọng và lo lắng”, “dự đoán và lo âu”, ẩn dưới bề mặt quan hệ của Trung Quốc với các nước láng giềng nhỏ hơn ở phía nam. Điều này đúng ngay cả với các quốc gia phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc, chẳng hạn như Campuchia và Lào. Trong số những phần hay nhất của cuốn sách của Hiebert là những phần mà ông xem xét các quốc gia này, cho thấy sự phức tạp trong thái độ đối với Trung Quốc và cách các quốc gia nhỏ vẫn có thể thực hiện quyền tự quyết bất chấp sự phụ thuộc của họ vào Bắc Kinh. Ví dụ, ông lưu ý cách các nhà lãnh đạo của Lào – một quốc gia “dân số ít và mắc nợ nhiều” – đã dành 5 năm để tranh cãi với Trung Quốc về một dự án đường sắt để đảm bảo các điều khoản “mà họ có thể chấp nhận”.

Tôi tình cờ đến Viêng Chăn, thủ đô của Lào vào đầu năm 2016, khi Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cầm quyền tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Một người bạn – một đảng viên – nói với tôi rằng một số quan chức cấp cao sẽ bị cách chức vì quá ủng hộ Trung Quốc. Tôi đã hoài nghi. Nhưng hai Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch kiêm Tổng Bí thư Choummaly Sayasone và Phó Thủ tướng Somsavat Lengsavad, đã thực sự bị mất chức.

Lào có các thiết chế thực sự – quan trọng nhất trong số đó là một đảng tiên phong theo mô hình chủ nghĩa Lênin, mà những lợi ích của tổ chức này là tối thượng – và dù bị Trung Quốc lấn át và không có nhiều dư địa để tự hành động, nhưng nước này sử dụng các thiết chế đó hết mức có thể. Ngược lại, Campuchia được Shambaugh mô tả là “quốc gia duy nhất phụ thuộc Trung Quốc toàn diện” ở Đông Nam Á, mô tả này cũng được Hiebert lặp lại tương tự. Không giống như ở Lào, sự lãnh đạo ở Campuchia gần như hoàn toàn theo chủ nghĩa cá nhân: Thủ tướng Hun Sen đã mô tả sự ủng hộ đối với Trung Quốc là “lựa chọn chính trị của Campuchia” và những lựa chọn của ông là những lựa chọn duy nhất quan trọng ở Campuchia.

Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người Campuchia đều hào hứng với sự phụ thuộc của Hun Sen vào Trung Quốc. Vào tháng 1 năm 2018, thống đốc của Preah Sihanouk đã viết một lá thư gửi Bộ Nội vụ phàn nàn về việc đầu tư của Trung Quốc đã dẫn đến gia tăng tội phạm và gây ra “tình trạng mất an ninh trong tỉnh”. Đó là một điều tất yếu tự nhiên mà sự lãnh đạo theo chủ nghĩa cá nhân của Hun Sen phải chấm dứt. Tình trạng là một quốc gia phụ thuộc Trung Quốc của Campuchia có thể chỉ là một giai đoạn.

Những cuốn sách này chỉ rõ rằng Trung Quốc có những điểm yếu nghiêm trọng ở Đông Nam Á – mặc dù không nhất thiết phải là những điều được các nhà quan sát ở phương Tây xác định. Ví dụ, một số nhà phân tích phương Tây có xu hướng quan sát cẩn trọng việc Bắc Kinh quan tâm đến cộng đồng người Hoa ở hải ngoại, coi bộ phận này như một “đội quân thứ năm” tiềm tàng. Ông Tập đã tuyên bố ủng hộ “tất cả người Trung Quốc” trong “giấc mộng Trung Hoa” của mình, làm dấy lên những nghi ngờ về ý đồ của Trung Quốc.

Nhưng cả ba cuốn sách đều chứng minh rằng ở Đông Nam Á, nơi mà các mối quan hệ giữa người gốc Hoa và người bản địa thường đầy rẫy những căng thẳng tiềm ẩn, thì người Hoa hải ngoại hoàn toàn không phải là một lợi thế rõ ràng cho Bắc Kinh. Các tác giả nhận ra rằng không có mối tương quan đơn giản nào giữa sắc tộc và việc gia tăng ảnh hưởng. Sự hiện diện đơn thuần của các cộng đồng người Hoa ở các nước Đông Nam Á không nhất thiết có lợi cho Trung Quốc.

Năm 2018, trong cuộc tổng tuyển cử ở Malaysia, đại sứ Trung Quốc đã công khai vận động tranh cử cho lãnh đạo một đảng người Hoa trong liên minh cầm quyền, phá vỡ quy tắc cơ bản của ứng xử ngoại giao: không can thiệp. Liên minh cầm quyền đã thua, và liên minh kế nhiệm đã nhanh chóng đàm phán lại một số dự án kinh tế do Trung Quốc hậu thuẫn. Trong chuyến thăm Trung Quốc vào cuối năm đó, Mahathir Mohamad, tân thủ tướng Malaysia (người từng giữ chức thủ tướng từ năm 1981 đến năm 2003), đã cảnh báo rõ ràng rằng các hành động của Trung Quốc trong khu vực có thể giống như một “phiên bản mới của chủ nghĩa thực dân”.

Các nhà quan sát phương Tây có xu hướng coi các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông, nơi họ đã từng bước xâm phạm biên giới biển của các nước láng giềng, là ví dụ rõ ràng nhất cho tham vọng bành trướng của Bắc Kinh. Tuy nhiên, như Hiebert và Strangio đã nói rõ, ở Đông Nam Á, cũng có nhiều lo lắng về các hoạt động của Trung Quốc ở một vùng nước khác đó là sông Mekong, chảy qua 5 trong số 10 nước thành viên ASEAN và chưa nhận được sự chú ý đúng mức từ các chuyên gia quan hệ quốc tế.

Strangio nhắc nhở độc giả rằng “ảnh hưởng kinh tế và chính trị của Trung Quốc chảy qua sông Mekong vào Đông Nam Á” và “quyền kiểm soát giống như van khóa” của Trung Quốc đối với thượng nguồn của con sông “cho phép Bắc Kinh kiểm soát đáng kể” dòng chảy về phía nam của con sông. Các dự án xây đập của Trung Quốc trên thượng nguồn sông Mekong đã và đang làm giảm dòng chảy ở hạ lưu.

Nền kinh tế Campuchia và Lào phần lớn vẫn dựa vào nông nghiệp tự cung tự cấp. Các nhà lãnh đạo ở Campuchia và Lào có thể không quan tâm quá nhiều đến những gì Trung Quốc làm ở Biển Đông, nhưng họ sẽ phải suy nghĩ kỹ về một vấn đề có khả năng gây ra mối đe dọa hiện hữu đối với sinh kế của chính người dân của họ. Nếu các hành động của Trung Quốc trên sông Mekong không khiến Phnom Penh và Viêng Chăn phải suy nghĩ lại về cách họ tiến hành quan hệ với Trung Quốc, thì các thành viên ASEAN khác nên xem xét lại mối quan hệ của ASEAN với hai nước này.

Quản lý sự ngờ vực

Một số độc giả có thể ngạc nhiên trước ý kiến cho rằng ở một khu vực bị đặt dưới tầm ảnh hướng của một cường quốc, một tổ chức đa phương khu vực vẫn có ảnh hưởng thực sự. Nhưng ASEAN là một tổ chức như vậy. Không cuốn sách nào trong số những cuốn sách trên trình bày thỏa đáng về tổ chức. Shambaugh là người duy nhất dành một chương cho nó. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên.

Rất ít học giả thực sự hiểu cách hoạt động của ASEAN. Mục đích cơ bản của nó không phải là giải quyết các vấn đề mà là quản lý sự ngờ vực và khác biệt giữa các thành viên và giúp ổn định hóa một khu vực mà ngay cả sự lịch sự, văn minh trong các mối quan hệ cũng là điều quan trọng, qua đó giảm thiểu cơ hội can thiệp của các cường quốc.

Thậm chí một số nhà lãnh đạo ASEAN dường như cũng không hiểu điều này. Vào tháng 7 năm 2012, khi Campuchia giữ vai trò chủ tịch của tổ chức, ASEAN lần đầu tiên không thống nhất được thông cáo chung của các ngoại trưởng. Hor Namhong, Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia, từ chối chấp nhận bất kỳ thỏa hiệp nào về lời văn liên quan đến Biển Đông, nhấn mạnh rằng không nên đề cập đến vấn đề này. Rõ ràng ông ta đã làm như vậy theo yêu cầu của Trung Quốc; Phó Oánh, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, hầu như không bận tâm đến việc che giấu sự hiện diện của mình tại một cuộc họp không liên quan đến mình.

Tuy nhiên, chỉ một tuần sau, Marty Natalegawa, lúc đó là Ngoại trưởng Indonesia, đã thuyết phục Campuchia tham gia đồng thuận của ASEAN về Biển Đông. Nội dung của tuyên bố chủ yếu được lấy từ các tài liệu đã thống nhất trước đó, và trong một số trường hợp, ngôn từ cuối cùng còn sắc sảo hơn các dàn xếp mà Campuchia đã bác bỏ vào tuần trước. Nỗ lực hớ hênh của Phnom Penh nhằm làm hài lòng Bắc Kinh tỏ ra vụng về và cuối cùng chỉ làm lãng phí thời gian. Các lãnh đạo của Phó Oánh ở Bắc Kinh chắc hẳn không hài lòng khi để sự thao túng của Trung Quốc bị phơi bày một cách trắng trợn mà không có mục đích. Và kể từ đó, Campuchia đã không còn cứng đầu đến mức ngu ngốc trong các cuộc thảo luận về Biển Đông.

Không quốc gia nào cho phép Bắc Kinh xác định giúp lợi ích quốc gia của mình chỉ để duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc. Ngoại trừ Campuchia, không thành viên ASEAN nào thấy cần phải sắp xếp các lợi ích trên các lĩnh vực khác nhau của mình trùng với lợi ích của bất kỳ cường quốc nào. Ngoại giao của ASEAN và các thành viên bản chất là phức tạp, không đơn nhất.

Shambaugh tuyên bố rằng “Các quốc gia ASEAN đã quen với việc không chỉ trích Trung Quốc một cách công khai hoặc trực tiếp”. Nhưng các quốc gia ASEAN cũng không công khai chỉ trích Hoa Kỳ hay bất kỳ cường quốc lớn nào khác. Họ không công khai chỉ trích người khác không phải vì họ bị “chi phối” bởi bất kỳ ai mà bởi vì những lời chỉ trích công khai ngăn cản các lựa chọn và làm giảm không gian ngoại giao.

Các nước nhỏ chỉ có thể xoay sở trong các điểm đan xen giữa các mối quan hệ của các cường quốc. Mục đích thiết yếu của các diễn đàn do ASEAN lãnh đạo như Hội nghị cấp cao Đông Á hàng năm, nơi quy tụ các quốc gia thành viên ASEAN với các nước như Australia, Ấn Độ, Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc và Hoa Kỳ, là để tối đa hóa các không gian xen kẽ đó, làm sâu sắc thêm tính đa cực tự nhiên của khu vực.

Đối trọng Mỹ

Tất nhiên, có những cường quốc bên ngoài quan trọng hơn những cường quốc khác. Nếu không có Hoa Kỳ thì sẽ không có sự kết hợp nào giữa các cường quốc khác có thể cân bằng lại Trung Quốc. Không phải mọi thành viên ASEAN sẽ nói như vậy trước công chúng, nhưng hầu hết các thành viên dường như đều nhận ra sự thật này.

Vào cuối những năm 1980, chính trị nội bộ Philippines và một thảm họa tự nhiên đã buộc các lực lượng Hoa Kỳ phải rời khỏi Vịnh Subic và Căn cứ Không quân Clark. Năm 1990, Singapore, quốc gia từ lâu đã ủng hộ sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Đông Nam Á, đã ký một bản ghi nhớ với Washington cho phép một số lực lượng Mỹ sử dụng các cơ sở quân sự ở Singapore. Vào thời điểm đó, một số thành viên ASEAN đã lớn tiếng chỉ trích kịch liệt thỏa thuận này. Nhưng họ chẳng có ý kiến nào khi Singapore ký một thỏa thuận liên quan đến hợp tác quốc phòng và an ninh với Hoa Kỳ vào năm 2005 hoặc khi bản ghi nhớ 1990 được gia hạn vào năm 2019.

Sự thay đổi thái độ đó phản ánh sự bất bình ngày càng tăng của khu vực đối với hành vi của Trung Quốc, mà cả ba cuốn sách đều đề cập. Chính sách của Trung Quốc thường gây ra sự phản đối. Ví dụ, cả Hiebert và Strangio đều nghiên cứu chi tiết về dự án đập Myitsone ở Myanmar. Như Strangio lưu ý, kể từ thời điểm Myanmar ký thỏa thuận xây dựng con đập với một công ty nhà nước Trung Quốc vào năm 2006, “sự phản đối đã gần như trở nên phổ biến”. Dự án đã bị đình chỉ vào năm 2011, nhưng, như Hiebert viết, vào cuối năm 2019, “hoạt động vận động hành lang lóng ngóng và thiếu hiểu biết của đại sứ Trung Quốc [nhằm hồi sinh dự án] đã gây ra các cuộc biểu tình phản đối xây dựng con đập ở các thành phố trên khắp đất nước.”

Một ưu điểm lớn của cuốn sách của Shambaugh là phân tích chi tiết về việc tại sao việc gia tăng hiện diện của Trung Quốc ở Đông Nam Á không dẫn đến việc giảm thiểu mối quan hệ kinh tế hoặc an ninh với Hoa Kỳ. Trong một số trường hợp, quan hệ với Hoa Kỳ thậm chí còn được mở rộng. Không giống như nhiều học giả khác, Shambaugh hiểu rằng các quốc gia Đông Nam Á không xem các lựa chọn có sẵn của mình ở dạng nhị phân, tổng bằng không.

Tuy nhiên, Shambaugh chỉ đúng một phần khi ông kết luận rằng “Đông Nam Á và Hoa Kỳ chưa bao giờ có quan hệ tốt với nhau đến vậy” như dưới thời Obama. Thật tốt khi nghe một tổng thống Mỹ phát biểu về việc đưa châu Á trở thành mối quan tâm trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Thật được đề cao khi Tổng thống Barack Obama dành thời gian tham dự các cuộc họp của ASEAN. Chuyến thăm năm 2012 của Obama tới Myanmar, nhằm khuyến khích sự dân chủ hóa mới chớm của chế độ độc tài, là một bước đột phá táo bạo. Việc xây dựng Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương là một thành tựu lớn trong một khu vực mà thương mại là một khía cạnh chiến lược.

Nhưng quyền lực mềm, thứ mà Obama có rất nhiều, sẽ không đủ nếu không thực hiện quyền lực cứng – và Obama không mấy mặn mà với điều đó. Năm 2012, chính quyền của ông đã làm trung gian cho một thỏa thuận giữa Bắc Kinh và Manila liên quan đến bãi cạn Scarborough ở Biển Đông. Khi Trung Quốc vi phạm các điều khoản của thỏa thuận bằng cách từ chối điều các tàu của họ ra khỏi khu vực tranh chấp, Washington đã không làm gì cả. Năm 2015, ông Tập đã hứa với Obama rằng Trung Quốc sẽ không quân sự hóa Biển Đông. Nhưng khi Bắc Kinh làm như vậy bằng cách triển khai lực lượng hải quân và tuần duyên để đe dọa các quốc gia tranh chấp ASEAN vào năm 2016, Hoa Kỳ lại không làm gì cả. Sự thất bại của Obama vài năm trước đó, vào năm 2013, trong việc bảo vệ giới hạn đỏ về việc sử dụng vũ khí hóa học của Syria đã làm suy giảm uy tín của quyền lực Hoa Kỳ – và Trung Quốc đã để ý đến điều đó.

Việc Tổng thống Mỹ Donald Trump rời bỏ Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương sau khi nhậm chức vào năm 2017 là một cái tát vào mặt bạn bè và đồng minh của Mỹ. Nhưng không phải tất cả những gì ông ấy làm đều sai. Tuy không mạch lạc và thô thiển, nhưng Trump dường như hiểu đúng bản năng về tầm quan trọng của việc thể hiện quyền lực cứng. Khi ông ấy quyết định ném bom Syria vào năm 2017 khi đang ăn tối với ông Tập, Trump đã giúp khôi phục sự khả tín của sức mạnh Mỹ bằng cách thể hiện việc sự sẵn sàng sử dụng vũ lực.

Trump cũng bác bỏ công khai các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông và trao quyền cho Hạm đội 7 của Mỹ tiến hành các hoạt động bảo vệ tự do hàng hải để thách thức các yêu sách này. Tự do hàng hải là một quyền và các quốc gia khác không cần sự cho phép của Trung Quốc để thực hiện quyền đó. Ngược lại, trong nhiệm kỳ thứ hai của Obama, Lầu Năm Góc và Hội đồng An ninh Quốc gia đã đấu khẩu ồn ào về sự sáng suốt của các hoạt động này, làm suy yếu hiệu quả dự kiến của chúng.

Vì từng là phó tổng thống của Obama, Biden không thể dễ dàng tách mình khỏi những gì đã xảy ra trong nhiệm kỳ của Obama. Bạn bè cũng như kẻ thù sẽ xem xét kỹ lưỡng mọi động thái của Biden để tìm kiếm bất kỳ dấu hiệu yếu đuối nào. Biden có thể sẽ điều chỉnh chính sách của Hoa Kỳ, nhưng về cơ bản không chuyển hướng, trong quan hệ với Trung Quốc và vấn đề thương mại. Chính quyền của ông sẽ đưa ra các chính sách và truyền đạt chúng với sự chặt chẽ, mạch lạc và cân nhắc hơn các mối quan hệ bạn bè và đồng minh so với thời Trump. Môi trường ngoại giao của Hoa Kỳ sẽ được cải thiện sau thời kỳ ảm đạm và hỗn loạn trong những năm dưới chính quyền Trump. Tất cả những điều này sẽ được chào đón. Nhưng sẽ vô ích nếu chính sách đối ngoại của Mỹ lại rơi vào tình trạng miễn cưỡng sử dụng quyền lực cứng của Obama.

Biden nên thận trọng trong việc thúc đẩy các giá trị của Mỹ để đáp lại sự thờ ơ của Trump đối với chúng. Những giá trị như vậy không nhất thiết là một tài sản chiến lược ở Đông Nam Á, nơi chúng không được chia sẻ bởi tất cả các nước. “Dân chủ” là một thuật ngữ dễ thay đổi, “nhân quyền” được hiểu theo nhiều cách khác nhau, và Đông Nam Á nói chung chú trọng nhiều hơn đến quyền của cộng đồng hơn là quyền của cá nhân.

Hoa Kỳ đã không triển khai lực lượng trên đất liền Đông Nam Á kể từ sau Chiến tranh Việt Nam. Với tư cách là một cường quốc cân bằng ngoài khơi, Hoa Kỳ sẽ luôn cảm thấy khó khăn khi định vị lập trường của mình: một lập trường chống Trung Quốc quá mạnh mẽ sẽ khiến các nước khu vực lo ngại bị vướng vào cạnh tranh Mỹ – Trung; còn một lập trường quá thụ động sẽ gây ra nỗi sợ hãi khu vực bị Mỹ bỏ rơi. Đây là một tình thế khó khăn. Nhưng Biden phải tránh sai lầm của Obama khi nghĩ rằng Hoa Kỳ cần giảm bớt sự cạnh tranh để giành được sự hợp tác của Bắc Kinh trong các vấn đề như chống biến đổi khí hậu.

Như bất kỳ sinh viên ngành quan hệ quốc tế nào cũng nên biết, hợp tác không phải là đặc ân mà nhà nước này ban cho nhà nước khác. Nếu có lợi cho mình, Bắc Kinh sẽ hợp tác. Các quốc gia có thể vừa cạnh tranh vừa hợp tác một cách đồng thời. Sự hiểu biết đó là nền tảng cho những kỳ vọng của Đông Nam Á đối với Hoa Kỳ.

B.K.

Nguồn: Nghiên cứu Quốc tế

This entry was posted in Quan hệ Mỹ - Đông Nam Á, Quan hệ Đông Nam Á - Trung Quốc. Bookmark the permalink.