(The South China Sea and How It Turned into “Historically” Chinese Territory in 1975)
Johannes L. KURZ (Bandar Seri Begawan)
Phan Văn Song dịch
Một trong những bài viết sớm nhất trình bày “bằng chứng lịch sử” cho hiểu biết và hành động lâu đời của Trung Quốc (TQ) về các nhóm đảo ở Biển Đông đã xuất hiện trên tờ Renmin ribao (Nhân dân nhật báo 人民日报) vào ngày 25 tháng 11 năm 1975 có tựa đề là “Nam hải chư đảo tự cổ tựu thị ngã quốc lãnh thổ” 南海诸岛自古就是我国领土 (Các đảo ở Biển Đông từ xưa là lãnh thổ của chúng ta). Việc Nhân dân nhật báo đăng bài báo này phản ánh lập trường chính thức của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) và khuyến khích nỗ lực của học giả TQ trong việc chứng minh tính xác thực của các yêu sách lịch sử ở Biển Đông. Bài báo này có ảnh hưởng sâu sắc đến các diễn đạt chính trị và học thuật trong tương lai trong việc tom góp các đảo ở Biển Đông vào lãnh thổ TQ. Để cho thấy bài viết của “Shi Dizi” (Sử lệ tổ 史棣祖 – Tổ sử học gồm những người gắn bó quan điểm với nhau – BVN chú) thiết lập “thẩm quyền lịch sử” đối với các đảo ở Biển Đông như thế nào [1], tôi sẽ xem xét kĩ lưỡng một số nguồn của nó một cách chi tiết dưới đây. Điều này đặc biệt thích hợp vào thời điểm Hoa Kì đang thực thi quyền tự do đi lại (FONOP) ở Biển Đông ở mức độ thường xuyên [2] và khi một lượng lớn giao thương toàn cầu đi qua khu vực này [3]. Thêm vào đó, cộng đồng quốc tế đã bác bỏ các yêu sách của CHNDTH ở Biển Đông. Cuối cùng là Tòa Trọng tài Thường trực tại The Hague vào tháng 7 năm 2016 đã ra phán quyết rằng TQ không có “quyền lịch sử” ở Biển Đông như tuyên bố của TQ năm 2009 qua việc nộp một công hàm có bản đồ Đường 9 đoạn (cửu đoạn tuyến 九段线) [4]. Việc xem xét lại quá trình này, bắt đầu bằng vụ Philippines kiện CHNDTH vào năm 2013, bắt đầu [tiến hành] vào năm 2015. Phán quyết này ngay lập tức đã bị CHNDTH bác bỏ qua việc một lần nữa nói rằng lịch sử vẫn là một luận cứ hậu thuẫn quyền sở hữu của TQ đối với Biển Đông [5].
Bản đồ 1 Các bên yêu sách Biển Đông
(Bản đồ của tác giả chưa cập nhật, thay bằng bản đồ của ND)
Mở đầu
Vào tháng 1 năm 1974, quân giải phóng (PLA) TQ đã giành quyền kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa (Xisha qundao: Tây Sa quần đảo) với việc đánh bại lực lượng Nam Việt Nam đóng tại đó [6]. Sau đó, từ tháng 3 đến tháng 4 năm 1974 Bảo tàng tỉnh Quảng Đông (Quảng Đông tỉnh bác vật quán 广东省博物馆) và Cục Văn hóa Khu hành chính Hải Nam (Hải Nam hành chính khu văn hoá cục 海南行政区文化局) đã cử một nhóm nhà nghiên cứu đến khảo sát lãnh thổ mới chiếm được. Khi tìm thấy một số đồ vật như tiền đồng và gốm sứ TQ họ bèn kết luận rằng “quần đảo Tây Sa từ xưa đã là lãnh thổ thiêng liêng của TQ” (Tây Sa quần đảo tự cổ dĩ lai tựu thị TQ đích thần thánh lãnh thổ 西沙群岛自古以来就是中国的神圣领土). Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu chợt bắt gặp một tài liệu (sổ đi biển (thuỷ lộ bạ 水路簿)) thuộc sở hữu của ngư dân Su Deliu (Tô Đức Liễu 苏德柳) ở Đàm Môn 潭门 phía đông đảo Hải Nam [7] có ghi chép các tuyến đường đi thuyền đến các đảo và có nói đến các đảo và bãi cạn theo tiếng địa phương Đàm Môn [8]. Thú vị là kết quả của cuộc điều tra này được ba bài báo ở Hồng Kông – chứ không phải ở CHNDTH – dõi theo, đều bênh vực cùng một điểm, đó là các tuyên bố lịch sử của TQ trong khu vực, dựa trên cơ sở các tài liệu lịch sử [9]. Hai bài trong số này xuất hiện trên Minh báo nguyệt san 明報月刊 cùng số. Bài đầu của Dang Siyu (Đặng Tự Vũ 邓嗣禹), có tựa là “Nam TQ hải chư đảo tự đích chủ quyền vấn đề” 南中国海诸岛屿的主权问题 (Vấn đề chủ quyền ở các đảo và rạn đá ở Biển Đông) và mạnh mẽ đề xuất rằng tất cả các nhóm đảo trong Biển Đông là lãnh thổ của TQ [10]. Đặng Tự Vũ sử dụng một số ít sách vở và bản đồ trước thế kỉ 19 để củng cố luận điểm của mình trong khi bài báo thứ hai do Yip Honming (Diệp Hán Minh 葉漢明) và Ruiqing Wu (Ngô Thuỵ Khanh 吳瑞卿) viết thì đầy đủ hơn và sử dụng các sách vở TQ từ thế kỉ 1 trở đi [11]. Ngoài số lượng tài liệu tham khảo tăng lên rất nhiều, bài viết của Diệp và Ngô cũng có cả bản đồ. Tác giả của bài viết thứ ba – trong Thất thập niên đại 七十年代 – là Qi Xin (Tề Tân 齊辛), lại tập trung vào lịch sử thế kỉ 19 và 20 và lí do vì sao quần đảo Tây Sa là lãnh thổ TQ trong một thời gian dài. Giống như Đặng Tự Vũ, Tề Tân không cung cấp nhiều sách vở xưa hơn của TQ, nhưng bàn luận về các chính sách hiện đại [12]. Hai bài báo trên Minh báo nhằm chứng minh các nhà nước phong kiến và hiện đại TQ tiếp nối nhau đã kiểm soát các đảo ở Biển Đông như thế nào và do đó đã biến chúng thành lãnh thổ TQ (Nam hải chư đảo đích chủ quyền quy thuộc 南海诸岛的主权归属). Nhiều khả năng việc TQ chiếm được quần đảo Hoàng Sa và đẩy lùi lực lượng Nam Việt Nam mới trước đó [1974] đã thúc đẩy các tác giả viết ra các bài báo này. Với khả năng quân sự của TQ vào thời điểm đó còn kém phát triển so với Mĩ, việc dùng lập luận lịch sử có lẽ là tuyến phòng thủ đầu tiên để chống lại việc can thiệp ủng hộ Nam Việt Nam có thể có của Mĩ.
Tìm ra Biển Đông trong sách vở tiền hiện đại: “Sử lệ tổ” 史棣祖 năm 1975
Trước khi bài báo của “Sử lệ tổ” xuất hiện trên Nhân dân nhật báo năm 1975, Shao Xunzheng (Thiệu Tuần Chính 邵循正)(1909-1972) đã viết trên Nhân dân nhật báo năm 1956 rằng một phần của Biển Đông là lãnh thổ lịch sử của TQ [13]. Thiệu Tuần Chính là một nhà nghiên cứu tại Sở Nghiên cứu lịch sử số 3 Viện khoa học TQ (TQ khoa học viện đệ tam lịch sử nghiên cứu sở 中国科学院第三历史研究所). Ông giải thích rằng các thực thể địa lí trong đại dương ghi trong các nguồn tài liệu TQ tiền hiện đại là những quy chiếu trực tiếp đến các nhóm đảo ở Biển Đông. Thiệu Tuần Chính tập trung vào cụm từ Thất Châu dương 七洲洋 (biển Bảy đảo) mà theo ông là để chỉ quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), và ông đã truy cụm từ này qua một số sách vở. Trong số sách vở trước thế kỉ 20 mà ông khảo sát là truyện Sử Bật 史弼 trong Nguyên sử 元史; Đảo di chí lược 島夷志略 (1349: Lược thuật về bọn người di trên các đảo); Tinh sà thắng lãm 星槎胜览 (khoảng năm 1436; Ngắm cảnh đẹp trên đường đi sứ); Vũ bị chí 舞备志(1621; Sách ghi chép về vũ khí); Hải ngữ 海语 (giữa triều Minh; Hội thoại về biển); Hải quốc văn kiến lục 海国闻见录 (nửa đầu thế kỉ 18; Ghi lại những điều nghe thấy về các nước ngoài biển); Hải lục 海录(1820; Ghi chép về biển). Từ đó, ông đã thiết lập một kiến thức liên tục về quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) từ năm 1292 đến cuối thời Thanh, và tiếp đó, thời hiện đại.
Gần 20 năm sau đó, bài viết của “Sử lệ tổ” cung cấp nhiều bằng chứng “lịch sử” về Biển Đông cho Chính phủ TQ trong việc bác bỏ phản đối của Nam Việt Nam đối với sự hiện diện của TQ trên quần đảo Hoàng Sa. Kể từ khi quần đảo Hoàng Sa vào năm 1975 trở thành một thứ “lãnh thổ hiển nhiên” của TQ qua việc chiếm đóng của quân đội họ, bài viết mới này đã vươn xa hơn về mặt lãnh thổ, cũng như về các nguồn sách vở được sử dụng. Bằng việc vận dụng các sách vở lịch sử, “Sử lệ tổ” lập luận rằng TQ có chủ quyền không tranh cãi được đối với các đảo này (TQ đối Nam Hải chư đảo đích chủ quyền vô khả tranh biện 中国对南海诸岛的主权无可争辩) [14]. Theo nghĩa đó, “Sử lệ tổ”, đề cập trực diện hơn nhiều so với các tác giả của các bài báo được xuất bản trước đấy ở Hồng Kông. Và có thể là như vậy, vì việc TQ chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa đã và sẽ không bị thách thức về mặt quân sự [15]. Việc nhấn mạnh lịch sử như là một lập luận hậu thuẫn cho các quyền của TQ ở Biển Đông chắc chắn là nhằm vào các quốc gia Đông Nam Á tiếp giáp với Biển Đông. Các quốc gia này không có ghi chép lịch sử nào để đưa ra và do đó không thể thách thức TQ được. Ngoài ra, các quy định liên quan đến các đại dương, như Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS, 1982) vào thời điểm đó vẫn chưa được hình thành.
“Sử lệ tổ” là một bút danh được các thành viên của Tổ Địa lí lịch sử thuộc Sở Địa lí Viện Khoa học TQ (TQ khoa học viện Địa lí nghiên cứu sở Lịch sử địa lí tổ 中国科学院地理研究所历史地理组) sử dụng hoặc Shidizu 史地组 (Sử địa tổ), nhóm cùng viết bài báo xuất hiện lần đầu tiên trên Guangming ribao (Quang minh nhật báo 光明日报) vào ngày 24 tháng 11 năm 1975 và được đăng lại vào ngày hôm sau trên Nhân dân nhật báo [16]. Nhiều sách vở mà “Sử lệ tổ” đào bới đã được Diệp và Ngô tham khảo trước đó.
Sau đó, “Sử Lệ tổ” đã sử dụng một mảng lớn sách vở cho phép họ mở rộng các hiểu biết cho là của TQ về Biển Đông và các đảo của nước này trong hơn một ngàn năm. Họ đã thiết lập một kho tài liệu tham khảo mà các tác giả sau này ở CHNDTH thường xuyên đọc đi đọc lại [17].
Thay vì chỉ đưa ra bằng chứng từ sách vở, “Sử lệ tổ” đã phân loại sách vở thành loại cung cấp bằng chứng về việc đặt tên trước nhất cho các đảo, loại về sự khai thác và canh tác thực tế, và loại về việc cai quản trong lịch sử qua các triều đại tiếp nối của TQ. Điều này trở thành khuôn khổ chung cho tất cả các nỗ lực nghiên cứu lớn cũng như các tuyên bố chính thức của các cơ quan chính phủ cho đến gần đây.
Sách vở đôi khi chỉ được nêu tên, nhưng nói chung, “Sử lệ tổ” không chỉ ra đích xác vị trí của các đoạn trích. Tôi đã xác định các đoạn trích nguyên gốc đến mức có thể được, và dịch ra [tiếng Anh]. Các từ ngữ trung tâm đóng vai trò quan trọng trong lập luận về Biển Đông là zhanghai 涨海 (trướng hải: biển trướng/dâng lên), shitang 石塘 (thạch đường: kè/bờ/bãi đá), wanli shitang 万里石塘 (vạn lí thạch đường: bờ đá mười ngàn lí), wanli shitang yu 万里石塘屿 (vạn lí thạch đường dự/tự: đảo / bờ đá mười ngàn lí), trường sa 长沙 (bãi cát dài), vạn lí trường sa 万里长沙 (bãi cát mười ngàn lí), qizhouyang 七洲洋 / 七州洋 (thất châu dương: biển bảy đảo), jiuruluozhou 九乳螺洲 (cửu nhũ loa châu: đảo Cửu Nhũ Loa) [18] và nhiều từ khác. Vì các tên gọi bằng tiếng Trung nên các địa điểm này mặc nhiên là lãnh thổ của TQ theo nguyên tắc “Ai đặt tên, người ấy là chủ”. Các nguồn được “Sử lệ tổ” tham khảo, bao gồm các ghi chép chính thức và không chính thức của các triều đại, ghi chép về các chuyến đi, địa chí, sổ tay đi biển, và bản đồ, còn đối với cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20 là báo chí và hướng dẫn đi biển của Anh.
Các nguồn
Sau đây tôi sẽ bàn về các nguồn TQ tiền hiện đại cho đến đầu thế kỉ 19 mà “Sử lệ tổ” có chỉ đến. “Sử lệ tổ” giới thiệu các nguồn theo hai tiêu đề chính, thứ nhất là “phát hiện địa lí với một lịch sử lâu dài” (lịch sử du cửu đích địa lí phát hiện 历史悠久的地理发现), và thứ hai là “khai phá cần mẫn liên tục không gián đoạn” (trì tục bất đoạn đích tân cần khai phát 持续不断的辛勤开发). Tiếp theo đó là phần có tiêu đề “việc cai quản của các chính phủ các triều đại đối với các đảo ở Biển Đông” (ngã quốc lịch đại chính phủ đối Nam Hải chư đảo đích hành chánh quản hạt 我国历代政府对南海诸岛的行政管辖) [19] trong đó có nêu thêm nhiều tài liệu lịch sử. Bài báo kết thúc với phần có tiêu đề “lãnh thổ thiêng liêng là không thể xâm phạm” (thần thánh lãnh thổ bất dung xâm phạm 神圣领土不容侵犯) trong đó tập trung chủ yếu vào các yêu sách của TQ đối với Biển Đông trong thế kỉ 20. Tài liệu bao gồm chủ yếu là các bài báo trên tạp chí và các bản đồ thuộc phần cuối của thế kỉ 19 và những thập niên đầu của thế kỉ 20 được bàn trong phần thứ hai và phần thứ tư đã được Bill Hayton phân tích đầy đủ và tôi muốn giới thiệu cho người đọc về công trình rất chi tiết của ông về chủ đề này [20]. Trong phần sau tôi sẽ trình bày các nguồn lịch sử khi chúng xuất hiện dưới tiêu đề thứ nhất, thứ hai và thứ ba.
Phát hiện địa lí với một lịch sử lâu dài
Loạt bằng chứng dạng văn bản dưới tiêu đề thứ nhất bắt đầu với Hou Hanshu (Hậu Hán thư 后汉书) của Tạ Thừa 谢承 (thế kỉ 3), vốn chỉ còn các mảnh rời. “Sử lệ tổ” dẫn một mục trong những bản được lưu giữ trong cuốn bách khoa toàn thư Taiping yulan (983; Thái Bình ngự lãm 太平御览 – vua triều Thái Bình xem) thời đầu nhà Tống:
Trần Mậu 陈茂 ở Nhữ Nam từng làm biệt giá (别驾) [một chức quan] ở Giao Chỉ, vị cựu Thứ sử hành bộ (旧刺史行部) không đi qua biển trướng (zhanghai 涨海) [21]. Khi Thứ sử Chu Xưởng 周敞 xuống thuyền ra biển, một cơn gió nổi lên đe dọa làm lật thuyền, Mậu rút kiếm ra mắng thuỷ thần và gió lập tức dịu xuống [22].
汝南陈茂尝为交趾别驾.旧刺史行部,不渡涨海,刺史周敞涉海遇风,船欲覆没,茂拔剑诃骂水神,风即止息 (Nhữ Nam Trần Mậu thường vi Giao Chỉ biệt giá, cựu Thứ sử hành bộ, bất độ trướng hải, Thứ sử Chu Xưởng thiệp hải ngộ phong, thuyền dục phúc một, Mậu bạt kiếm ha mạ thủy thần, phong tức chỉ tức).
Làm cách nào mà đoạn văn này kể lại việc cai quản Biển Đông, như “Sử lệ tổ” khẳng định vẫn còn là một câu đố. Nó mô tả một chuyến đi biển trắc trở, nhưng không làm nên bằng chứng thuyết phục cho việc “đi tuần” (tuần hành 巡行) trên biển [23]. Thay vào đó, tên một chức quan, cụ thể là chức quan đứng đầu khu vực (Thứ sử hành bộ 刺史行部) đã biến thành một khẳng định “đi tuần biển trướng” (hành bộ trướng hải 行部涨海) qua việc diễn giải lại “hành bộ” như một động từ thay cho vai trò ban đầu của nó như là một phần của tên chức vụ.
Các tác giả sau này như Nan Mingzi (Nam Minh Tử 南溟子) [24] đã chọn một mảnh trong Hậu Hán thư lưu trong bách khoa toàn thư nhà Đường Sơ học kí 初学记 (nửa đầu thế kỉ 8, ghi chép cho người mới bắt đầu học):
Các cống vật từ bảy quận của Giao Chỉ đều được gửi tới qua trướng hải (zhanghai 涨海) [25].
交趾七郡獻貢,皆從漲海出入 (Giao Chỉ thất quận hiến cống, giai tùng trướng hải xuất nhập)
Phần trích ở đây có lưu ý miền bắc Việt Nam (Giao Chỉ) là lãnh thổ dưới quyền của TQ, và ngụ ý là vùng biển giữa miền bắc Việt Nam và TQ cũng phải thuộc TQ.
Cuốn sách tiếp theo, Nam châu dị vật chí 南州异物志 (Ghi chép về các thứ kì lạ ở Nam châu) do Vạn Chấn 万振 thời Tam Quốc (thế kỉ 3) biên soạn, được trích trong Thái bình ngự lãm như sau:
Đi thuyền từ phía tây nam đến phía đông bắc (ta gặp) những tảng đá khổng lồ nổi lên trong biển trướng. Quanh đó nước cạn và có nhiều đá nam châm [26].
东北行,极大崎头,出涨海,中浅而多磁石 (đông bắc hành, cực đại khi đầu, xuất trướng hải, trung thiển nhi đa từ thạch).
Lời giải thích được đưa ra ở đây là đoạn văn này mô tả các bãi cát và rạn san hô ngầm mà tàu thuyền có thể gặp trong các chuyến đi từ Đông Nam Á đến nam TQ. Đối với “Sử lệ tổ”, điều này liên quan đến “việc phát hiện và mô tả sớm về các đảo ở Biển Đông”. Tuy nhiên, thông tin quá mơ hồ, đoạn trích từ Nam châu dị vật chí này đã được bổ sung – nếu không phải bỏ hoàn toàn – trong các công bố sau này viết theo Dị vật chí 异物志 (Ghi chép về những điều kì lạ) của Dương Phu 杨孚 thời nhà Hậu Hán (25 – 220 CE) [27]. Lí do có khả năng nhất cho sự thay đổi này là vì Dị vật chí có trước Nam châu dị vật chí vài thập kỉ [28]. Dị vật chí nói:
Có nhiều đá mấp mô trong biển trướng, ở đó nước cạn và có rất nhiều đá nam châm. Người nước ngoài (kíếu ngoại nhân 徼外人) cưỡi thuyền lớn đều phải gia cố thuyền của họ bằng các tấm kim loại. Khi họ đến vùng biển này thì không thể vượt qua được vì bị đá nam châm hút [29].
涨海崎头,水浅而多磁石,徼外人乘大舶,皆以铁锢之,至此关,以磁石不得过 (trướng hải khi đầu, thủy thiển nhi đa từ thạch, kiếu ngoại nhân thừa đại bạc, giai dĩ thiết cố chi, chí thử quan, dĩ từ thạch bất đắc quá).
Đoạn này nhấn mạnh đến việc đâm vào các bãi cát và đá là không thể tránh khỏi khi đi thuyền trong khu vực chưa có hải đồ. Nó hàm ý rằng giao thông đường biển từ tây nam đến đông bắc không phải do người TQ đảm nhận, mà do “người nước ngoài”, rất có khả năng là người Đông Nam Á. Những người này có thể đã báo cho người TQ về những nguy hiểm của việc vượt đại dương khi họ cho tàu thuyền thực hiện những chuyến đi như vậy. Dù sao đi nữa, việc đề cập đến các chướng ngại vật trong một khu vực biển không xác định khó có thể chấp nhận như là kiến thức ban đầu của TQ về các đảo Biển Đông. Bộ Ngoại giao [Trung Quốc] trong tuyên bố bằng tiếng Anh về Biển Đông vào ngày 17 tháng 11 năm 2000, đã dịch zhanghai qitou (trướng hải khi đầu 涨海崎头: những mỏm đá lớn trên biển trướng [largeboulders in the rising sea]) thành “những hòn đảo, rạn san hô, bờ cát và bãi biển của quần đảo Tây Sa và Nam Sa, các đảo ở Biển Đông (“islands, reefs, sand banks, and beaches of the Xisha and Nansha Islands of the South China Sea Islands)” [30]. Tuyên bố tiếp tục với việc vẫn cho rằng qitou (khi đầu 崎头) là một từ tổng quát được người TQ sử dụng để chỉ “tất cả các đảo, rạn san hô, bãi cạn và đảo ở Biển Đông, bao gồm cả quần đảo Nam Sa và Tây Sa (all the islands, reefs, shoals and isles in the South China Sea, including the Nansha and Xisha Islands)”. Cách giải thích này cũng được đưa vào phiên bản tiếng Trung của tuyên bố ngày 22 tháng 11 năm 2000 [31]. Cách dịch tiếng Anh hơi sai lệch này phục vụ cho việc thuyết phục các đối tượng người nước ngoài đọc tiếng Anh về các yêu sách chính đáng của TQ. Ngoài ra, nó còn tăng thêm nghĩa của “những mỏm đá lớn” trong lời văn gốc với việc gộp hết mọi loại [thực] thể địa lí triều thấp và triều cao ở Biển Đông vào. Theo đó, chỉ một từ gốc duy nhất bao gồm hết tất cả các đảo và các rạn san hô ngầm có thể có mà CHNDTH thèm muốn. Nếu không có năng lực ngôn ngữ cần thiết thì ai có thể tranh luận hoặc sẽ tranh luận với “bằng chứng lịch sử” đó? [32]
Jianming Shen (Thân Kiến Minh 申建明) đã đưa ra một bản dịch thậm chí táo tợn hơn đoạn văn trong phiên bản Nam châu dị vật chí trong Thái Bình ngự lãm [33]:
Có nhiều đảo nhỏ, cồn cát, rạn san hô và bãi cát ở Biển Đông, ở đó nước cạn và chứa đầy đá nam châm. Các quan đi tuần biển dùng thuyền lớn có bọc sắt; Khi đến khu vực này, họ không thể tiến xa hơn vì đá nam châm [34].
涨海崎头,水浅而多磁石,外徼人乘大船,皆以铁锢之,至此关,以磁石不得过 (trướng hải khi đầu, thủy thiển nhi đa từ thạch, ngoại kiếu nhân thừa đại thuyền, giai dĩ thiết cố chi, chí thử quan, dĩ từ thạch bất đắc quá).
Shen đã biến đá (khi đầu) thành “đảo nhỏ, cồn cát, rạn đá và bãi cát” [35]; “biển trướng” thành Biển Đông; và người nước ngoài thành “các quan đi tuần biển” [36]. Bằng cách thay đổi thứ tự các chữ trong “kíếu ngoại nhân” 徼外人thành “ngoại kiếu nhân” 外徼人 ông đã biến người nước ngoài ở “bên ngoài biên giới” (jiaowai 徼外 (kíếu ngoại)) thành quan “tuần tra biên giới” (waijiao 外徼 (ngoại kiếu)). Ông cũng đã thay đổi bo 舶 (bạc) vốn cho thấy nguồn gốc của tàu thuyền có thể là từ Đông Nam Á [37] thành chuan 船 (thuyền). Do đó, ông đã biến một tàu có thể là của nước ngoài thành tàu của TQ, biến một quan sát do các thủy thủ nước ngoài thực hiện thành một quan sát của thủy thủ TQ. Như vậy, Thân Kiến Minh đã sửa đổi lời văn để mô tả thành bối cảnh của TQ, trong đó các quan TQ đi tuần tra một khu vực biển do TQ kiểm soát, và đã loại bỏ đi ý nghĩa ban đầu theo đó có thể là người đi Biển Đông Nam Á đi thuyền trên một đại dương mở. Các tàu được bảo vệ bằng các tấm sắt nếu chúng đâm vào đá. Từ tính của các tảng đá là hình ảnh cho việc va vào đá không thể tránh khỏi, và những con tàu được gia cố bằng các tấm kim loại không phải bị dừng lại vì từ tính mà vì không có cách nào vượt qua chướng ngại vật [38]. (Xét tựa của cuốn sách là Dị vật chí cũng như các nội dung khác của cuốn sách – gồm những chuyện khác thường, hoang đường… có thể để thu hút người đọc TQ – thì cách hiểu theo nghĩa đen [biển có đá nam châm có thể hút làm thuyền không chạy được] có lẽ phù hợp hơn cách hiểu ẩn dụ thế này – ND)
Funan zhuan (Phù Nam truyện 扶南传; x. thêm: Wu shi waiguo zhuan 吴时外国传 (Ngô thời ngoại quốc truyện)) là một tường thuật của Khang Thái 康泰 và Chu Ứng 朱应 về chuyến đi Phù Nam (ở miền Nam Việt Nam hiện nay) vào thế kỉ 3. Chỉ còn những mảnh rời rạc dưới dạng các đoạn trích trong bách khoa toàn thư thời Đường và Tống. Những mảnh rời này đã được Trần Giai Vinh 陈佳荣 tìm cách ghép lại và xuất bản [39]. Đoạn văn ngắn có liên quan từ bản gốc được trích dẫn trong Thái Bình ngự lãm như sau:
Ở biển trướng, có thể gặp các đảo san hô (san hô châu 珊瑚洲) [40] mà ở dưới chân của các đảo này san hô mọc lên trên đá [41].
张海中,到珊瑚洲,洲底有盘石,珊瑚生其上也 (trướng hải trung, đáo san hô châu, châu để hữu bàn thạch, san hô sanh kì thượng dã.)
Đối với “Sử lệ tổ”, câu này cho thấy các thủy thủ xưa của TQ đã có một “hiểu biết khá chính xác” (tương đương tinh xác đích nhận thức 相当精确的认识) về hình dạng và cấu trúc của các đảo Biển Đông. Vị trí của các đảo san hô này chỉ là thứ yếu, vì zhanghai (trướng hải) theo cách hiểu của “Sử lệ tổ” là Biển Đông. Với vai trò là một trong những từ trung tâm trong lập luận của TQ, các học giả TQ đã lặp đi lặp lại lập luận cho zhanghai là Biển Đông.
Trước đây ít lâu Roderich Ptak đã chỉ ra rằng kết luận cuối cùng về cách giải thích từ này vẫn chưa được nói ra và việc thảo luận về nó vẫn đang tiếp diễn [42]. Trong nghiên cứu chi tiết trước đó về từ này, Ptak giải thích rằng zhanghai – một từ ông không dịch khác hơn là “biển zhang” ( “Zhang Meer”) – là một từ mô tả vùng biển ngoài khơi Quảng Đông, xung quanh đảo Hải Nam, và vịnh Bắc Bộ [43]. Cuối cùng, từ này bao gồm hầu hết các khu vực biển từ Quảng Đông đến Ấn Độ Dương. Theo đó, zhanghai không nhất thiết chỉ một khu vực biển cụ thể, mà là một tên gọi mơ hồ cho một khu vực biển không xác định.
“Sử Lệ tổ” không cung cấp dù chỉ một nguồn nào để nêu thêm bằng chứng cho các tên gọi của TQ cho Biển Đông hoặc bất kì thể địa lí nào nằm trong đó thuộc giai đoạn từ thời Tam Quốc tới triều đại nhà Đường (thế kỉ 3 đến đầu thế kỉ 10); không có tư liệu cho giai đoạn này, “Sử lệ tổ” nhảy sang triều Tống [44]. Lí do chính để đề cập đến Bình châu khả đàm 萍洲可談 (đầu th.k. 12; Trò chuyện về một đảo nổi) của Chu Úc 朱彧 là vì đó là một trong những sách vở đầu tiên mô tả việc đi thuyền với la bàn. Mặc dù la bàn tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại trên biển, nhưng “Sử lệ tổ” giải thích rằng các địa điểm đó không thể do những người đi biển xác định. Vì trong Bình châu khả đàm không đề cập đến đảo, đảo san hô cũng như rạn đá nào, nên “Sử Lệ tổ” đã tham khảo Lĩnh ngoại đại đáp 岭外代答 (1178; Thông tin về các vùng đất phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh) của Chu Khứ Phi 周去非 (? – 1178).
“Sử lệ tổ” khẳng định sách sử thời nhà Tống cho thấy “hiểu biết địa lí” (地理认识 địa lí nhận thức), “địa hình của đáy biển” (海底地形的概貌 hải để địa hình đích khái mạo), và “đưa ra tên chính thức cho các đảo trên Biển Đông” (给南海诸岛正式命名 (cấp Nam Hải chư đảo chính thức mệnh danh)). Câu trong Lĩnh ngoại đại đáp mà “Sử lệ tổ” rút ra – ở dạng cắt xén – như sau:
Trong đại dương lớn phía đông có một bãi cát dài và một bờ đá kéo dài hàng mười nghìn lí [45].
东大洋海,有长砂石塘数万里 (đông đại dương hải, hữu trường sa thạch đường sổ vạn lí)
Bãi cát và bờ đá trong câu này là những mô tả về các đảo Biển Đông. Đoạn trích ở dạng đầy đủ là:
Nghe nói rằng ở đại dương phía đông, nhiều bãi cát và bờ đá kéo dài hàng chục ngàn lí mà ở đó nước thoát đi tại Vĩ lư (rốn biển) [46] và đổ xuống chín vực thẳm (âm phủ) [47].
传闻东大洋海,有长砂石塘数万里,尾闾所泄,沦入九幽 (truyền văn đông đại dương hải, hữu trường sa thạch đường sổ vạn lí, vĩ lư sở tiết, luân nhập cửu u).
Câu trích bị cắt ngắn giấu đi sự mơ hồ (truyền văn: nghe nói) [và thậm chí hoang đường như vĩ lư (rốn biển), cửu u (âm phủ) – ND] của bản gốc. Thay vì mô tả các đảo ở Biển Đông và đề cập đến chúng bằng tên chính thức được cho là của chúng một cách chắc chắn, Lĩnh ngoại đại đáp lặp lại lời đồn về những trở ngại đối với việc đi lại trên biển. Sau khi “Sử Lệ tổ” thiết lập những trở ngại vô danh này (trường sa, vạn lí thạch đường…) thành tên gọi cho các đảo ở Biển Đông, việc kết hợp các hồ sơ lịch sử để hậu thuẫn cho điều giả định này trở thành đơn giản. Điều giả định này còn chừa chỗ để thực hiện thêm các xác định khác, chẳng hạn như trong trường hợp bãi cát dài [48].
Đối với “Sử lệ tổ” lời văn trên rõ ràng là nói tới các đảo trên Biển Đông với các tên gọi “bãi cát ngàn lí, bờ đá mười ngàn lí” (thiên lí trường sa vạn lí thạch đường 千里长沙万里石塘). Hơn nữa, “Sử lệ tổ” còn xem lời văn đó cung cấp “một mô tả về đặc tính địa lý của các hải vực và tình hình hàng hải Biển Đông (miêu thuật liễu giá cá hải vực đích địa lí đặc chinh hòa hàng hải tình huống 描述了这个海域 的地理特征和航海情况). Quỳnh quản chí 琼管志 (Sách ghi chép việc cai quản Quỳnh [châu]), nhiều khả năng biên soạn vào đầu thời Nam Tống, không còn tồn tại mà chỉ còn sót lại một vài mảnh rời. Dư địa kí thắng 舆地纪胜 (Sách ghi chép các nơi nổi tiếng), sách địa lí do Vương Tượng Chi 王象之 biên soạn (fl. 1196-sau 1221) thời Nam Tống, trích dẫn Quỳnh quản chí trong mục về trại Cát Dương (Cát Dương quân 吉阳军) trên đảo Hải Nam như sau:
Ngoài biên giới của nơi này (Cát Dương) có các hòn đảo có tên là Ô Lí 乌里, Tô Mật 苏密, và Cát Lãng 吉浪 nằm đối diện với Chiêm Thành. Phía tây (của Cát Dương) là Chân Lạp và Giao Chỉ, và phía đông là các bãi cát ngàn lí (thiên lí trường sa) và các bờ đá mười ngàn lí (vạn lí thạch đường). Rộng lớn và vô tận từ trên xuống dưới, kéo dài hàng ngàn lí một màu[…] [49].
其外则乌里苏密吉浪之洲,而与占城相对.西则真腊交趾,南则千里长沙,万里石塘,上下渺茫,千里一色 […] (kì ngoại tắc Ô Lí, Tô Mật, Cát Lãng chi châu, nhi dữ Chiêm Thành tương đối. Tây tắc Chân Lạp, Giao Chỉ, nam tắc Thiên Lí Trường Sa, Vạn Lí Thạch Đường, thượng hạ miểu mang, thiên lí nhất sắc […])
Theo cách hiểu của “Sử Lệ tổ”, hai cụm từ này (thiên lí trường sa, vạn lí thạch đường) trong Quỳnh quản chí thực tế là tên gọi của tất cả các đảo trong Biển Đông thay vì là những mô tả mơ hồ về các mối nguy hàng hải. “Sử Lệ tổ” cho rằng các bản đồ hàng hải được vẽ ra vào cuối thế kỉ 13 đã phản ánh kiến thức này [50]. “Sử lệ tổ” đặc biệt chú trọng vào một bản đồ hay các bản đồ mà Triệu Nhữ Quát 赵汝适 (1165? – sau 1225) có nhắc tới mà ông đã xem được.
Triệu Nhữ Quát, tác giả của Chư phiên chí 诸蕃志 (Sách ghi chép về các nước phiên thuộc), từng trông coi ti thị bạc (hải quan) ở Tuyền Châu, Phúc Kiến. Chư phiên chí, dựa trên thông tin do các người đi biển cung cấp, là một trong những sách vở đầu tiên có nêu tên gọi “mới” thiên lí trường sa 千里长沙 (bãi cát ngàn lí) và vạn lí thạch đường 萬里石塘(bờ đá mười ngàn lí). Ptak đề xuất rằng cả hai cụm từ này có thể là tên gọi chung cho các bãi và bãi cát, và không chỉ đảo hoặc nhóm đảo cụ thể nào. Đối với ông, cho dù trường sa và thạch đường chỉ cái gì, chắc chắn chúng không phải dưới quyền cai quản của các triều đại Tống, Nguyên, Minh. Tương tự, ông khẳng định rằng không có bằng chứng nào cho bất kì sự định cư nào của người TQ được tìm thấy trong các nguồn có liên quan [51].
Trong lời nói đầu cuốn Chư phiên chí, Triệu Nhữ Quát có nói đến sàn/giường đá (thạch sàng 石床) và bãi cát dài (trường sa 长沙) đã được ghi trên bản đồ hoặc các bản đồ Chư phiên đồ 诸蕃图 (Bản đồ các nước phiên)). Những bản đồ cụ thể này là bản đồ nào thì không rõ. “Sử lệ tổ” coi Chư phiên đồ như là một hải đồ lâu đời nhất (giá trương tối cổ lão đích hải đồ 这张最古老的海图) có đánh dấu “những nguy hiểm của các sàn đá và bãi cát dài.” Đoạn đầy đủ trong lời nói đầu như sau:
Sau khi Nhữ Quát được lệnh ở đây, ông đã xem qua các bản đồ của tất cả (nước) phiên trong thời gian rảnh rỗi. Ông đã kiểm tra các ghi chép khác về sự nguy hiểm của sàn đá và bãi cát dài, cùng ranh giới của biển Giao (Giao dương 交 洋) và đảo Trúc (竺屿 Trúc tự) (mà các bản đồ đề cập), nhưng không có gì trên đó [52].
汝适被命来此,暇日阅《诸蕃图》,有所谓石床(塘),长沙之险,交洋,竺屿之限, 问其志则无有焉.(Nhữ Quát bị mệnh lai thử, hạ nhật duyệt “Chư phiên đồ” hữu sở vị thạch sàng, trường sa chi hiểm, Giao dương, Trúc tự chi hạn, vấn kì chí tắc vô hữu yên).
Trong khi không thể xác định được gốc tích của sàn đá và bãi cát dài, thì biển Giao và đảo Trúc lại có thể là chỉ dẫn trực tiếp đến một mục trong Lĩnh ngoại đại đáp [53]. Mục này mô tả chuyến đi từ Srivijaya trên Sumatra đến miền nam TQ qua biển Giao và đảo Trúc [54]. Các ghi chép mà Triệu Nhữ Quát đọc qua để tìm kiếm vị trí của sàn đá và bãi cát dài không cung cấp chi tiết nào thích hợp.
Cẩm nang quân sự Vũ kinh tổng yếu 武经总要 (Những điều cốt yếu về quân sự; 1044) của Tăng Công Lượng 曾公亮 (998, 1078) có nói đến cụm từ Jiuruluoshi (Cửu Nhũ Loa thạch 九乳螺石) trong mô tả các đoạn đường biển xuất phát từ Quảng Châu thuộc Quảng Đông, có thể ngầm hiểu là đi về phía nam:
Từ núi Đồn Môn 屯门山 lợi dụng gió đông, có thể tới đá Cửu Nhũ Loa sau khi đi theo hướng tây nam trong 7 ngày. Sau 3 ngày nữa sẽ đi đến đảo Zhanbulao shan (Chiêm Bất Lao 占不劳山) (bình luận: tại biên giới của nước Hoàn Châu 环州国) [55].
从屯门山用东风,西南行七日至九乳螺州,又三日至占不劳山(在环州国界)(tùng Đồn Môn sơn dụng đông phong, tây nam hành, thất nhật chí Cửu Nhũ Loa châu, hựu tam nhật chí Chiêm Bất Lao sơn (tại Hoàn Châu quốc giới)).
Đối với “Sử lệ tổ”, nhiều rạn đá ngầm ở quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) là lí do để Vũ kinh tổng yếu gọi chúng bằng cái tên Cửu Nhũ Loa. “Sử lệ tổ” đã củng cố quan điểm của họ bằng một bản đồ trong Dương phòng tập yếu 洋防辑要 (Tóm tắt về phòng thủ biển, xem Bản đồ 2) của Nghiêm Như Tập 严如熠 (1759-1826) [56]. Quảng Đông dương đồ 广东洋图 (Bản đồ biển Quảng Đông) – xuất bản sau Vũ kinh tổng yếu vài trăm năm – được cho là phản ánh kiến thức thời Tống vì nó đặt Jiuruluozhou (Cửu Nhũ Loa châu 九乳螺洲: đảo Cửu Nhũ Loa) “ở vị trí của quần đảo Tây Sa (tại tây Sa quần đảo đích vị trí thượng 在西沙群岛的位置上)”. Bản đồ đó chắc chắn không được vẽ theo tỉ lệ và do đó không thể xác định chính xác vị trí của các rạn đá và bãi cát [57].
Bản đồ 2 Dương phòng tập yếu 1.8a (27), Quảng Đông dương đồ
Mộng lương lục 梦梁录 (Chuyện về giấc mơ trên bát kê) của Ngô Tự Mục 吴自牧 (khoảng 1256-sau 1334) theo “Sử lệ tổ” là nguồn lâu đời nhất cho cụm từ Thất Châu dương七洲洋, giống như Cửu Nhũ Loa thạch/châu cũng được cho là tên gọi của quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) [58]. “Sử lệ tổ” kết luận rằng sách vở từ nhà Tống là bằng chứng cho thấy:
[…] kiến thức của nhân dân lao động TQ về địa hình Biển Đông trong thế kỉ 13 đã có bước tiến (tảo tại thập tam thế kỉ ngã quốc lao động nhân dân dĩ đối Nam Hải đích địa hình hữu liễu tiến nhất bộ đích liễu giải 早在十三世纪我国劳动人民已对南海的地形有了进一步的了解) [59].
“Sử lệ tổ” tin rằng Nguyên sử – Truyện Sử Bật, một chỉ huy Mông Cổ trong đội quân đi tấn công Java không thành công vào năm 1292, là bằng chứng cho thấy hạm đội TQ “đã đi qua các đảo ở Biển Đông” (dĩ kinh biến lịch Nam Hải chư đảo已经遍历南海诸岛)”. “Sử Lệ tổ” đưa ra đoạn văn [60] sau:
Khởi hành từ Tuyền Châu […] họ đi ngang qua biển Thất Châu và bờ đá mười ngàn lí, và sau đó đến lãnh thổ của Giao Chỉ (miền Bắc Việt Nam) và Chiêm Thành (miền Trung Việt Nam).
从泉州启航,过七洲洋,万里石塘,交趾,占城 (tùng Tuyền Châu khải hàng, quá Thất Châu dương, vạn lí thạch đường, Giao Chỉ, Chiêm Thành)
Đây không phải là bằng chứng cho thấy các tàu đó đi qua khu vực này; thay vào đó, đoạn văn nói rõ rằng một thủy thủ khôn ngoan sẽ tránh các đảo, bãi cát và đá không chỉ trong biển Thất Châu mà cụ thể là dãy đá chắn được cho là dài mười ngàn lí. Do đó bắt buộc phải tránh chướng ngại vật này thay vì đi thuyền xuyên qua nó [61].
Sau khi vét hết kiến thức thời Nguyên được cho là về các đảo ở Biển Đông, “Sử lệ tổ” săm soi tới Wubei zhi (Vũ bị chí 武备志: Sách về vũ khí quân sự, xem Bản đồ 3), một tài liệu được Mao Nguyên Nghi 茅元仪 (1594-1640?) biên soạn sau chuyến đi của Trịnh Hòa trong nửa đầu thế kỉ 15. Vũ bị chí có ghi dấu các vị trí như “bờ đá sao đá” (thạch tinh thạch đường 石星石塘), “bờ đá” (thạch đường 石塘) và “đảo bờ đá mười ngàn kiếp” (vạn sinh thạch đường dư 万生石塘屿). Tài liệu tham khảo của “Sử lệ tổ” trong trường hợp này là các bản đồ chứa trong Trịnh Hoà hàng hải đồ [62].
“Bờ đá sao đá” được miêu tả thành vô số các dấu chấm có lẽ có nghĩa là các rạn san hô và bãi ngầm. Cách gọi tên này có lẽ biểu thị số lượng chướng ngại quá nhiều như sao trên trời. Hai thực thể địa lí khác được thể hiện là núi hoặc đá. “Đảo bờ đá mười nghìn kiếp” rất có thể để chỉ tính chất nguy hiểm của nó, có thể phải trả giá nhiều mạng sống [63].
Bản đồ 3 Trịnh Hòa hàng hải đồ 郑和航海图 (Vũ bị chí 240.11a, trong Hướng Đạt 2000, 40)
Ngoài các công trình lịch sử, “Sử lệ tổ” cũng bàn luận về các tài liệu đi biển thực tế. Tất cả các tài liệu đó đều có đề cập dưới dạng này hay dạng khác các [thực] thể địa lí mà “Sử Lệ tổ” đã khẳng định là tên gọi cho các đảo ở Biển Đông. Sách đầu tiên trong số đó là Haiyu (Hải ngữ), một tác phẩm do Huang Zhong (Hoàng Trung 黄衷) thời Minh biên soạn (1474-1553) có nói đến một “bờ đá mười ngàn lí” (vạn lí thạch đường 万里石塘) và “bãi cát mười ngàn lí” (vạn lí trường sa 万里长沙) [64].
Đông tây dương khảo 東西洋考 (Về đại dương phía đông và phía tây) của Zhang Jie (Trương Tiếp 张燮) (1574-1640) có ghi chép một số tuyến đường biển trên Biển Đông. Mục từ trong Đông tây dương khảo mà “Sử Lệ tổ” có rất nhiều khả năng quan tâm tới là mục sau:
Qizhoushan 七州山 (Thất Châu sơn), Qizhouyang 七州洋 (Thất Châu dương). Quỳnh Châu chí 琼州志 nói: Cách Văn Xương 100 lí về phía đông có một ngọn núi trong đại dương mà từ đó nhô lên 7 đỉnh. Trong đó có một suối nước trong uống được. Đây là nơi Lưu Thâm 刘深, lính nhà Nguyên, bắt được Du Đình Khuê 俞廷珪, hầu cận (của hoàng đế) khi truy đuổi hoàng đế Đoan Tông 端宗 (1276 – 1278) nhà Tống [65]. Truyền thuyết kể rằng Thất Châu xưa kia là một đại dương sâu thẳm. Đi thuyền qua nó, [thủy thủ] phải cúng cháo cho các loài ma quỷ của đại dương và cầu nguyện không ngừng. Khi tàu đã vượt qua khu vực nguy hiểm này, sau một thời gian ngắn nó sẽ đi đến một bờ đá kéo dài khoảng mười ngàn lí ở phía đông, và đó là nơi mà Quỳnh chí 琼志 gọi là biển bờ đá (Thạch Đường hải 石塘海) phía đông Vạn Châu. Khi tàu đâm vào bờ đá, người ta chỉ có thể hi vọng rằng nó sẽ tự thoát. Nước ở Thất Châu dương sâu 130 thác 托 (sải) (khoảng 234 m). Khi đi thuyền từ đó đến Đông Kinh 东京 ở Giao Chỉ 交趾 (Bắc Bộ, miền Bắc Việt Nam) thì đi thẳng theo hướng thân 申 (240 độ), và sau năm canh (更) giờ (khoảng 115 km), sẽ tới chỗ núi Lê Mẫu 黎母山 [66].
七州山,七州洋【瓊州志曰:在文昌東一百里.海中有山,連起七峰,內有泉,甘冽可食.元兵劉深追宋端,宗執其親屬俞廷珪之地也. 俗传古是七州沉而成,海舶过,用牲粥祭海厉, 不则为祟, 舟过此极险, 稍贪东,便是万里石 塘. 即《琼志》所谓万州东之石塘海也.舟犯石塘, 希脱者. 七洲洋打水一百三 十托, 若往交趾东京,用单申针五更见黎母山. (Thất Châu sơn, Thất Châu dương. Quỳnh Châu chí viết: tại Văn Xương đông nhất bách lí hải trung hữu sơn, liên khởi thất phong, nội hữu tuyền, cam liệt khả thực. Nguyên binh Lưu Thâm truy Tống Đoan, tông chấp kì thân chúc Du Đình Khuê chi địa dã. Tục truyền cổ thị thất châu trầm nhi thành, hải bạc quá, dụng sinh chúc tế hải lệ, bất tắc vi túy, chu quá thử cực hiểm, sảo tham đông, tiện thị vạn lí thạch đường, tức Quỳnh chí sở vị vạn châu đông chi Thạch Đường hải dã. Chu phạm thạch đường, hi thoát giả. Thất Châu Dương đả thủy nhất bách tam thập thác, nhược vang Giao Chỉ Đông Kinh, dụng đan thân châm ngũ canh kiến Lê Mẫu sơn).
Bản đồ 4 Một bản đồ từ sách có tên là Livro de marinharia de João de Lisboa (k.1560), vẽ lại trong Thomaz 1995, tấm XIV [quét từ trang vẽ tay gốc (c. 1560): https://digitarq.arquivos.pt/viewer?id=4162625]. Vùng biển dài vẽ với các dấu chấm ngoài khơi Việt Nam chỉ những chướng ngại cho tàu thuyền như là đá, bãi cạn và rạn đá.
“Sử Lệ tổ” đã diễn giải các tài liệu sau đây theo cách tương tự, cụ thể như là bằng chứng cho hiểu biết lâu đời của TQ về Biển Đông và các tên gọi được dùng để mô tả các nhóm đảo và rạn đá. Kể từ khi Thuận phong tương tống 顺风相送 (thuận gió ra khơi), một cuốn sổ tay của người đi biển (rutter) [67], là cuốn xưa nhất thuộc nhóm tài liệu này, đáng để đi sâu vào chi tiết thực tế hơn. Lời văn cảnh báo về sự nguy hiểm mà “bờ đá mười ngàn lí” và “bãi cát ngàn lí” gây ra cho tàu thuyền. Lời văn đưa ra một khoảng cách 7 canh giờ (khoảng 160 km hoặc 16 đến 17 giờ) trên một lộ trình theo hướng đông từ Thất Châu dương đến “bờ đá mười ngàn lí”. Câu hỏi đặt ra là liệu “khoảng thời gian ngắn” này cho đoạn đường đi từ Thất Châu dương đến “bờ đá mười ngàn lí” có thể bằng với 7 canh giờ ghi trong Thuận phong tương tống hay không. Đi thuyền từ Đông Nam Á tới miền nam TQ với gió mùa tây nam trên một lộ trình theo hướng đông, lời văn cảnh báo về “bãi cát mười ngàn lí” [68]. Các hướng dẫn đi thuyền xuất phát từ Giao Chỉ đặt “bãi đá mười ngàn lí” cách đó 7 canh giờ thẳng về phía đông [69]. Do đó, bãi đá sẽ cách đều miền bắc Việt Nam và Thất Châu dương khiến cho cách xác định nó là quần đảo Hoàng Sa như “Sử lệ tổ” đưa ra, sẽ rất khó chấp nhận. Chỉ nam chính pháp 指南正法 (Hướng dẫn la bàn chuẩn), một hướng dẫn đi biển từ thời đầu Thanh, lặp lại thông tin từ Đông tây dương khảo cũng như từ Thuận phong tương tống [70]. Sau đó, “Sử lệ tổ” đưa ra Đông dương Nam dương hải đạo đồ 东洋南洋海道图 (Bản đồ các tuyến đường biển ở hai đại dương phía đông và phía nam, xem Bản đồ 5) như là bằng chứng bản đồ cho thấy người TQ thời nhà Thanh đã biết từng đảo ở Biển Đông nằm ở đâu, trong khi Hải quốc văn kiến lục và Doanh hoàn chí lược 瀛寰志略(1848; Sách ghi chép gọn về trời đất) cung cấp bằng chứng bằng lời về nó. Đông dương Nam dương hải đạo đồ là công trình của Si Shibiao 施世骠 (Thi Thế Phiếu), vốn là Thuỷ sư đề đốc hải quân ở Phúc Kiến (Phúc Kiến thuỷ sư đề đốc 福建水师提督) từ năm 1712 đến 1722. Bản đồ cho thấy một khu vực dày đặc với những chấm nhỏ ở vị trí gần trùng với quần đảo Hoàng Sa. Điểm thú vị của bản đồ là phân định các tuyến đường đi biển giữa TQ và các địa điểm ở Đông Nam Á [71].
Các tài liệu khác mà “Sử lệ tổ”, đề cập sau đó đã không thêm thông tin mới nào cho cuộc thảo luận, nhưng chúng bổ sung cho mảng nguồn được cho là đã chứng minh quyền cai quản thiết lập lâu đời của TQ đối với các nhóm đảo ở Biển Đông. Tài liệu đầu tiên, Hải quốc văn kiến lục của Chen Lunjiong (Trần Luân Quýnh陈伦炯) (fl. 1730) có thông tin này:
Biển Thất Châu, ở phía đông nam Vạn Châu thuộc Quỳnh Đảo (Hải Nam), là một khu vực mà tất cả những người đi thuyền đến đại dương phía Nam (Đông Nam Á) phải đi qua. [72]
七州洋在琼岛万州之东南,凡往南洋者,必经之所. (Thất Châu dương tại Quỳnh đảo Vạn Châu chi đông nam, phàm vãng nam dương giả, tất kinh chi sở).
Bản đồ 5 Đông dương nam dương hải đạo đồ
Tài liệu thứ hai, một mục trong Doanh hoàn chí lược, chỉ là một đoạn trích khác từ Hải quốc văn kiến lục và do đó không góp thêm kiến thức mới [73]. “Sử lệ tổ” coi tài liệu thứ ba, Sứ tây kỉ trình 使西纪程(1876; Nhật kí đi sứ phương Tây) của Quách Tung Đảo 郭嵩焘 (1818-1891), là một nguồn hàng đầu về quần đảo Hoàng Sa vì Quách Tung Đảo nêu chúng là “các đảo thuộc TQ” (vi TQ thuộc đảo 为中国属岛). Quách Tung Đảo đã được những hành khách khác trên chiếc tàu đưa ông qua đại dương cho biết nó có tên là Qinaxi 齐纳细 (phiên âm của China Sea, HV đọc là ‘tề nạp tế’ – ND) mà ông ta hiểu có nghĩa là biển TQ 中国海. Phần có liên quan trong bản dịch của J.D. Frodsham ghi:
Cách cảng không xa [về phía bên trái] là quần đảo P’ai-la-su 拍拉苏(phiên âm của Paracel, HV đoc là ‘Phách Lạp Tô’ – ND) sản xuất sên biển và san hô, dù không có chất lượng tốt nhất. Các đảo này thuộc TQ, nhưng chúng khô cằn (là đảo hoang) và không có người ở [74].
(计当琼南二三百里, 船人名之 “斋纳细”, 犹言中 国海也.海多飞鱼,约长数尺,跃而上腾, 至丈许乃下.左近拍拉苏岛, 出海参, 亦产珊瑚而不甚佳. 中国属岛也. 系荒岛, 无居民. (Kế đương Quỳnh nam nhị tam bách lí, thuyền nhân danh chi “Trai Nạp Tế”, do ngôn Trung quốc hải dã. Hải đa phi ngư, ước trường sổ xích, dược nhi thượng đằng, chí trượng hứa nãi hạ. Tả cận Phách Lạp Tô đảo, xuất hải sâm, diệc sản san hô nhi bất thậm giai. Trung quốc chúc đảo dã. Hệ hoang đảo, vô cư dân.)
(không thấy ý “Cách cảng không xa” trong đoạn trích, có lẽ Frodsham dịch thoát, và lưu ý rằng ở đây Quách Tung Đảo không dùng tên tiếng Trung kiểu Thạch Đường hay Thất Châu… như học giả Tàu cho đó là tên của HS thời xưa mà lại nêu phiên âm P’ai-la-su của Paracels – ND).
Một trong những lập luận của phía TQ về quyền sở hữu quần đảo Hoàng Sa là sự canh tác liên tục của họ [75]. Khẳng định của Quách Tung Đảo rằng các đảo không có người ở nói điều ngược lại. Tuy nhiên, việc nhật kí của Quách Tung Đảo có đề cập đến các đảo vẫn được lấy làm bằng chứng, dù bấp bênh, rằng TQ kiểm soát chúng vào năm 1876.
Khai phá cần mẫn liên tục không gián đoạn
Phần giới thiệu của phần này đề cập đến hai đợt điều tra của Bảo tàng tỉnh Quảng Đông vào năm 1974 và 1975, và các đồ vật hai đợt này thu được thuộc thời Đường. Đối với “Sử lệ tổ”, những điều này khẳng định rằng từ thời nhà Đường, người TQ đã sống trên các đảo và kiếm sống ở đó. “Sử lệ tổ” đã chọn Quỳnh Đài ngoại kỉ 琼台外纪 (Sách ghi chép về Quỳnh Đài) của tác giả Vương Tá 王佐 thời Minh làm ví dụ cho công việc đánh bắt cá của ngư dân TQ và việc canh tác các đảo ở Biển Đông. Bản gốc của sách không còn nhưng các đoạn trích đã được đưa vào Đạo Quang Vạn Châu chí 道光万州志 (Sách ghi chép về Vạn Châu thời Đạo Quang). “Sử lệ tổ” trích đoạn văn sau:
Về phía đông của [Vạn] Châu là những bãi cát dài và bờ đá. Trong đại dương xung quanh mỗi khi có một cơn bão mạnh xảy ra, nó đẩy sóng tràn vào làm lụt nhà cửa và làm ngập các cánh đồng [76].
就有如下记载:万州东长沙,石塘,环海之地,每遇铁飓挟潮,漫屋蒌田. (Vạn châu đông trường sa, thạch đường, hoàn hải chi địa, mỗi ngộ thiết cụ hiệp triều, mạn ốc lâu điền).
Có thể hiểu đoạn văn này là nói về những túp lều và cánh đồng trên bãi cát và bờ đá giống như “Sử lệ tổ”, nhưng biết rằng bằng chứng cho việc “canh tác” (trên đó) là rất hiếm hoi – chỉ một vài nơi trú ẩn và hầu như không có bất kì kiểu làm nông nghiệp nào ngoài việc trồng một vài cây dừa được ghi nhận ở quần đảo Hoàng Sa – lời văn mô tả những cơn bão gây thiệt hại cho cư dân trên đảo Hải Nam nghe chừng hợp lí hơn. Không có dấu hiệu nào trong lời văn rằng các khu vực bị ảnh hưởng của bão và lũ lụt là ỏ nơi nào khác ngoài đảo Hải Nam. Nhận xét về các bãi cát và rạn đá trước đó là để giúp xác định khu vực biển có liên quan. Vạn Châu là Vạn Ninh hiện nay thuộc tỉnh Hải Nam nên các rạn đá và bãi cát ở phía đông của Vạn Ninh rất có thể là Thất Châu liệt đảo 七洲列岛 (nhóm đảo Taya).
Việc cai quản của chính phủ các triều đại cũ đối với các đảo ở Biển Đông
“Sử lệ tổ”, đã quay lại Vũ kinh tổng yếu và truyện Sử Bật trong Nguyên sử, và thêm Dư địa kí thắng (xem ở trên) để giải thích rằng các sách vở này đã có từ thời nhà Tống mô tả các khu vực vốn tạo thành một phần của ranh giới biển của TQ (vi TQ đích hải dương phạm vi 为中国的海洋范围). Chỉ cần một mục ghi chú tiểu sử của Ngô Thăng 吴陹 trong Càn Long Tuyền Châu phủ chí 乾隆泉州府志 (Sách ghi chép vể phủ Tuyền Châu thời Càn Long) là đủ để cho “Sử lệ tổ” lấy làm bằng chứng cho việc TQ kiểm soát các khu vực biển bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa trong đầu thế kỉ 18. Ngô Thăng, một chỉ huy quân sự ở tỉnh Quảng Đông,
[…] rời Quỳnh Nhai 琼崖 (Hải Nam) đi ngang qua Đồng Cổ 铜鼓, rồi đi thuyền ngang qua Thất Châu dương 七洲洋 và Tứ Canh Sa 四更沙 tuần vòng quanh 3 000 lí [77].
[…]自瓊崖,歷銅鼓,經七洲洋,四更沙,周遭三千里 (tự Quỳnh Nhai, lịch Đồng Cổ, kinh Thất Châu dương, Tứ Canh Sa, chu tao tam thiên lí).
Bản đồ 6 Dương phòng tập yếu 1.2a (15), cho thấy phần có liên quan của Trưc tỉnh hải dương tổng đồ”
Đồng Cổ trong (Khang Hi) Văn Xương huyện chí 康熙文昌县志 (Sách ghi chép về huyện Văn Xương (thời Khang Hi)) được mô tả như một vị trí nguy hiểm cho việc vận chuyển trên biển đến phía tây nam của Văn Xương ở miền đông đảo Hải Nam[78]. Tôi chưa thể xác định nơi này (nhiều học giả khác xác định nó ở mỏm đông bắc của đảo Hải Nam thuộc huyện Văn Xương, chỗ có núi Đồng Cổ (lĩnh) và mũi Đồng Cổ – ND). Thất Châu dương có nhiều khả năng là Thất Châu liệt đảo 七 洲 (quần đảo Taya) ngoài khơi bờ biển phía đông bắc của Hải Nam và hiện thuộc quyền quản lí của quận Văn Xương. Tứ Canh Sa có lẽ chỉ là Tứ Canh Sa Giác 四更沙角 hiện tại, điểm phía bắc của vịnh Đôn Đầu (Đôn Đầu loan 墩头湾) trên bờ biển phía tây của Hải Nam [79]. Như vậy, Ngô Thăng đã đi quanh các khu vực ven biển của Hải Nam từ đông vòng qua tây thay vì kiểm tra các hòn đảo xa bờ biển Hải Nam [80]. Do đó, đoạn văn này không phải là bằng chứng cho việc cai quản nào của TQ đối với quần đảo Hoàng Sa vào đầu những năm 1700.
“Sử lệ tổ” quay trở lại các bản đồ trong Dương phòng tập yếu (xem Bản đồ 6) và giải thích rằng “Trực tỉnh hải dương tổng đồ” 直省海洋总图 (Bản đồ tổng quát biển của các tỉnh) mô tả tất cả các đảo ở Biển Đông còn Quảng Đông dương đồ cho thấy các tên gọi Cửu Nhũ Loa châu và và Song Phàm thạch 双帆石 (đá Hai Buồm). Theo “Sử Lệ tổ”, những bản đồ này vẽ phác các khu vực phòng thủ bờ biển của TQ, (Ngã quốc hải phòng khu vực 我国海防区域). Trực tỉnh hải dương tổng đồ không thể hiện tất cả các đảo mà mô tả một “bãi cát mười ngàn lí” (vạn lí trường sa) ở phía đông của đảo Hải Nam [81].
Trước đây, “Sử Lệ tổ”, đã xác định “Cửu Nhũ Loa châu” là quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa); thực thể địa lí này trên Quảng Đông dương đồ nằm về phía đông nam của Hải Nam. “Song Phàm thạch” được miêu tả là nằm ở phía nam của Hải Nam (xem bản đồ 2 ở trên) [82]. Tuy nhiên, thật ra, rạn đá này trên thực tế nằm ngoài khơi bờ biển phía đông nam của Hải Nam. Giống như “Thất Châu liệt đảo” và “Tứ Canh Sa Giác”, “Song Phàm thạch” cũng đã được đưa vào Tuyên bố của Chính phủ CHNDTH về đường cơ sở của lãnh hải ngày 15 tháng 5 năm 1996. “Song Phàm thạch” này khác với “Song Phàm” 双帆 vốn là một phần của “Thất Châu liệt đảo” (nhóm đảo Taya) và cũng được nêu trong tuyên bố đó.
“Sử lệ tổ” trích dẫn một cách chính xác Đạo Quang Quỳnh Châu phủ chí 道光琼州府志:
Ở vùng Biển Đông Vạn Châu có bờ đá ngàn lí (thiên lí thạch đường) và bãi cát mười ngàn lí (vạn lí trường sa) vốn là những nơi nguy hiểm nhất trong biển Quỳnh (đại dương quanh Hải Nam) [83].
[万]州东接大洲洋,有千里石塘,万里长沙,为琼洋最险之处 ([Vạn] châu đông tiếp đại châu dương, hữu thiên lí thạch đường, vạn lí trường sa, vi Quỳnh dương tối hiểm chi xứ).
Nhưng “Sử Lệ tổ” lại biến câu khẳng định này thành bằng chứng cho quyền cai quản của TQ đối với tất cả các đảo Biển Đông. Tuy nhiên, đoạn trích mà “Sử Lệ tổ” sử dụng không đầy đủ vì lời văn còn tiếp tục như sau:
Tàu thuyền đi ngang qua đó, chỉ hi vọng nhìn thấy (những chướng ngại này), vì nếu chúng chìm trong nước, họ sẽ bị lạc đường. Do đó, thuyền trưởng địa phương không thể chỉ ra vị trí thực sự của chúng. Ai đó đã từng nói rằng chúng ở giữa nhóm đảo Jiguan (Kê Quan 鸡冠).
舟过此者但. 望即已沉溺,不可救,故土人船师皆不能实指其处.或云即在鸡冠诸岛之间
(chu quá thử giả đãn vọng tức dĩ trầm nịch, bất khả cứu, cố thổ nhân thuyền sư giai bất năng thật chỉ kì xứ. Hoặc vân tức tại Kê Quan chư đảo chi gian).
Các thủy thủ không thể xác định vị trí chính xác của bờ đá và bãi cát, cũng như chỗ các rạn đá nằm là ở đâu vì chúng hầu như lúc nào cũng bị nước che phủ. Tôi chưa xác định được nhóm đảo Jiguan, mặc dù có hai rạn đá ở vùng biển ngoài khơi thành phố Wenling (温岭 Ôn Lĩnh) ở Chiết Giang có tên tuần tự là Kê Quan dự 鸡冠屿 và Kê Quan Đầu dự 鸡冠头屿. Điểm chính là vị trí của các rạn san hô trong đoạn văn này cũng vẫn còn mù mờ như trong các đoạn văn trước đó [84].
Phần kết luận
Vào năm 1974, các nhà hoạt động chính trị đòi lấy lại lãnh thổ mà họ xác định là của “TQ”, và một khi họ đã chinh phục được lãnh thổ, trong trường hợp đang bàn là quần đảo Hoàng Sa, các học giả và nhà báo đã khai thác tài liệu tiền hiện đại để cung cấp cho họ những lập luận “lịch sử” mà cho đến nay chưa tác động thật nhiều đến bên ngoài, tức là các nhà hoạt động và cơ quan không phải TQ. Điều này đã trở nên khá rõ ràng trong phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực năm 2016, phán quyết đã không xét tới các quyền lịch sử của TQ. Cấu trúc và lập luận trong bài viết của “Sử lệ tổ” được dùng như là một mô thức vẫn còn nhận ra được, chẳng hạn trong tuyên bố về quần đảo Nam Sa (Trường Sa) của Bộ Ngoại giao CHNDTH năm 2000 [85]. Các mục của bài viết được phản ánh trong các phần của tuyên bố chính thức đó: “1. Phát hiện địa lí với một lịch sử lâu dài” trở thành “A: TQ là nước đầu tiên phát hiện và đặt tên cho quần đảo Nam Sa”; “2. Khai phá cần mẫn liên tục không gián đoạn”, được trình bày là “B. TQ là nước đầu tiên khai phá quần đảo Nam Sa”;“3. Việc cai quản của các chính phủ TQ trong quá khứ đối với các đảo ở Biển Đông” biến thành “C. TQ là nước đầu tiên thực thi thẩm quyền đối với quần đảo Nam Sa”.
Từ năm 1975, nhiều bài báo đã đưa lí lẽ chứng minh TQ có một lịch sử lâu dài trong việc hiểu biết và chiếm đóng các đảo ở Biển Đông, được thúc đẩy từ việc TQ thành công trong việc chiếm lấy quần đảo Hoàng Sa vào đầu năm 1974 [86]. Tuy nhiên, một trong những bài viết đầu tiên về chủ đề này được công bố trong một tạp chí học thuật không do các nhà sử học hay nhà khoa học chính trị mà lại do các nhà địa lí lịch sử của Viện Khoa học TQ viết [87]. Với việc thành lập các tạp chí như Nam dương vấn đề 南洋问题 vào năm 1974, trong đó các nhà sử học của Đại học Hạ Môn, Phúc Kiến, đã công bố nghiên cứu của họ về địa lí lịch sử của các đảo ở Biển Đông, thì những ý tưởng do “Sử lệ tổ” hình thành đã tiếp tục được thực hiện chi tiết [88]. Trong thời gian gần đây – kể từ năm 2015 – Nam dương vấn đề đã có sự tham gia của Nam hải học sơn 南海学刊 ở tỉnh Hải Nam, đây là nơi một thế hệ các tác giả mới tiếp tục làm việc theo tinh thần của nhóm đầu tiên của các nhà nghiên cứu ban đầu.
Khi mà cuộc thảo luận quốc tế về quyền sở hữu Biển Đông nóng lên vào cuối những năm 1980, được châm ngòi từ vụ đụng độ giữa lực lượng TQ và Việt Nam ở đá Gạc Ma và việc quân đội TQ chiếm lấy một số bãi và rạn đá sau đó ở quần đảo Trường Sa [89], các nhà sử học TQ đã được các đồng nghiệp của họ từ các ngành khoa học luật cùng nhập bọn [90]. Tầm quan trọng của bài viết của “Sử lệ tổ” đã được Li Guoqiang 李國強 (Lí Quốc Cường), người đã đề cập đến bài này trong số những bài tập trung vào nghiên cứu lịch sử, công nhận vào năm 2009, năm CHNDTH nộp bản đồ với Đường 9 đoạn [91], Lí Quốc Cường không liệt kê nó là bài báo đầu tiên loại này mà là bài thứ ba, mặc dù các bài trước nó, của Tan Qixiang (Đàm Kì Tương 谭其骧) 1979 và Han Zhenhua (Hàn Chấn Hoa 韩震华) 1981, được xuất bản sau đó [92]. Có thể bảng xếp hạng này phụ thuộc vào tầm vóc của các tác giả. Trong khi Đàm Kì Tương lẫn Hàn Chấn Hoa đều là những nhà nghiên cứu nổi tiếng công bố trên các tạp chí học thuật, một nhóm như “Sử lệ tổ” có lẽ không có uy tín học thuật nhường đó. Xét cho cùng, không ai trong số các thành viên của nhóm “Sử lệ tổ” có đóng góp thêm nghiên cứu nào có ý nghĩa cho mớ bòng bong Biển Đông sau năm 1975.
Trong một bài báo có tựa đề “Sức mạnh của các tài liệu lịch sử” (văn hiến đích lực lượng 文献的力量) và được công bố trên mạng của Tân Hoa Xã ngay sau vụ trọng tài năm 2016, các bài báo trên Nhân dân nhật báo năm 1956 và 1975 của Thiệu Tuần Chính và “Sử lệ tổ” được ca ngợi như sau:
Cả hai bài viết đã đưa ra rất nhiều bằng chứng lịch sử từ góc độ lịch sử, phơi bày sự vô lí trong lập trường của Việt Nam và Philippines [93].
Trong trường hợp này, chính các bài báo đó đã trở thành một phần của các lập luận “lịch sử” phủ nhận thẩm quyền của hai trong số các bên yêu sách đối với các đảo ở Biển Đông, tức là Việt Nam và Philippines, đối với các đảo này. Một điều khá rõ ràng là các tuyên bố chính thức đã dựa rất nhiều vào công trình của các học giả chuyên tâm, chẳng hạn như Hàn Chấn Hoa (1921-1993), người mà theo bài báo đã cung cấp “nền tảng” lịch sử thiết yếu cho tuyên bố của Bộ Ngoại giao CHNDTH vào đầu năm 1980 [94].
Câu hỏi đặt ra là tại sao trong hơn bốn thập kỉ, các nhà báo, nhà nghiên cứu và cán bộ đã viết đi viết lại một cách dư thừa về cùng một chủ đề, với cùng một phương pháp, sử dụng cùng một nguồn [95]. Các yêu sách được đưa ra trên cơ sở các sách vở tiền hiện đại là yếu ớt, bởi vì trong cách diễn giải của chúng để quá nhiều chỗ cho ước muốn; do đó, cứ bền bỉ nhai lại những gì đã được viết nhiều lần sẽ tạo ra sự tin cậy cần thiết. Các ấn phẩm về quyền lịch sử của TQ ở Biển Đông chủ yếu không nhắm đến độc giả ngoài TQ mà dùng để trình bày cho một nhóm gắn kết những kẻ đòi hỏi trong nội bộ TQ, bao gồm các học giả, cán bộ và công chúng rộng lớn hơn [96].
Cách tiếp cận chung này đối với xung đột lãnh thổ không chỉ riêng cho Biển Đông. Trong vụ tranh chấp quần đảo Senkaku 尖阁 (Tiêm Các) / Điếu Ngư 钓鱼giữa Nhật Bản, CHNDTH và THDQ xung quanh một nhóm đảo không có người ở, cách Đài Loan khoảng 170km về phía đông bắc, các quan tâm tương tự cũng phát sinh trong thập niên 1970 [97]. Những quan tâm này cũng được châm ngòi bởi sự hiện diện giả định của các tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ và ngư trường giàu tôm cá cũng như không thỏa hiệp về quyền sở hữu các đảo đang được bàn là rõ ràng vì tựa đề bài đầu là “Quần đảo Điếu Ngư là lãnh thổ cố hữu của TQ”, trong khi tựa đề bài thứ hai là “Về chủ quyền quần đảo Điếu Ngư” [98]. Tuy nhiên, kể từ những năm 2010, CHNDTH theo đuổi các lợi ích của mình với quần đảo này dựa trên yêu sách của họ theo UNCLOS [99]. Năm 1974, việc chiếm lấy quần đảo Hoàng Sa đã dẫn đến việc xây dựng các đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa, và việc sau đó lấy “lịch sử” để củng cố cho những hành động này. Trong tranh chấp quần đảo Senkaku / Điếu Ngư, với sự dính dáng của Nhật Bản trong vai trò là một trong những cường quốc kinh tế trong khu vực nên sự quan tâm quốc tế đương nhiên cao hơn và điều này có lẽ đã thúc đẩy TQ dùng cách tiếp cận thông qua luật lệ quốc tế thay vì hành động quân sự trực tiếp [100].
Do đó, thái độ đối với việc bồi đắp các nhóm đảo vẫn nhất quán theo các lập luận đã trình bày và các yêu sách lãnh thổ đã đưa ra, nhưng họ đã không thuyết phục được những ai biết dựa trên cơ sở pháp lí để tranh cãi yêu sách của TQ.
J.L.K.
________
Chú thích
[1] Tôi dùng cụm từ này để chỉ các rạn san, cồn, bãi cát ngầm và đảo san hô mà người TQ gọi là Nam Hải chư đảo 南海诸岛. Thuật ngữ chư đảo chỉ quần đảo Tây Sa 西沙 (quần đảo Hoàng Sa), Đông Sa 东沙 (quần đảo Pratas); Trung Sa 中沙 (bãi ngầm Macclesfield) và quần đảo Nam Sa (quần đảo Trường Sa). Quần đảo Đông Sa thuộc quyền quản lí của Trung Hoa Dân Quốc, trong khi các quần đảo khác bị tranh chấp bởi một số quốc gia quanh Biển Đông. Chỉ từ khi TQ bắt đầu chương trình xây dựng trên các thực thể địa lí này, biến một số trong đó thành “đảo”, ví dụ như đá Subi / Zhubi (Chữ Bích tiêu 渚碧礁, ở quần đảo Trường Sa) ban đầu là bãi triều thấp, không nhìn thấy khi triều cao, đá Subi đã được biến thành một đảo nhân tạo thông qua bồi đắp đất từ năm 2014. Về sự phát triển của Subi, xem Sáng kiến Minh bạch biển châu Á 2019. Về mặt pháp lí, các đảo có thể tạo ra một lãnh hải, một vùng tiếp giáp và một vùng đặc quyền kinh tế, trong khi bãi triều thấp thì không. Xem Freund 2017.
[2] Một trong những FONOP mới nhất được tiến hành vào tháng 1 năm 2019. Xem Storey 2019. Gần đây, hải quân Hoa Kì đã được Hải quân Hoàng gia cùng tham gia. Xem Hải quân Hoàng gia 2019.
[3] Năm 2016, gần 3,4 ngàn tỉ USD thương mại được vận chuyển qua Biển Đông, tức là khoảng 1/5 thương mại toàn cầu tại thời điểm đó. Xem China Power Team 2017.
[4] Về phán quyết (có sẵn dưới dạng pdf để tải xuống), xem Tòa Trọng tài Thường trực 2016. Đối với công hàm bao gồm bản đồ của CHNDTH gửi cho Liên Hợp Quốc, xem CHNDTH 2009. Xem thêm phản ứng của Bộ Ngoại giao Hoa Kì 2014. Các chuyên gia pháp lí phương Tây trước đó đã bác bỏ quan niệm về các yêu sách lịch sử của TQ vì chúng không đáp ứng các tiêu chuẩn của Luật pháp quốc tế. Xem Dupuy và Dupuy 2013. Ngoài ra, xem thêm Kopela 2017.
[5] Xem Bộ Ngoại giao CHNDTH. Năm 2016. Ngoài ra, còn thấy phản bác dài dòng phán quyết toà của Hội Luật Quốc tế TQ (Chinese Society of International Law) đề cập đến nhiều nguồn được đề cập trong bài báo của “Sử lệ tổ” dưới tiêu đề “Hành động thực tế của TQ ở Biển Đông trước thế kỉ 20”. Xem Hội Luật quốc tế TQ 2018, 455-457.
[6] Về một tường thuật của Nam Việt Nam về trận chiến, xem Hồ Văn Kỳ Thoai 2014. Bộ Ngoại giao CHNDTH đã lên án sự hiện diện của Nam Việt Nam trong Nhóm Lưỡi liềm (Vĩnh Lạc quần đảo 永乐群岛, nhóm đảo phía tây) ở quần đảo Hoàng Sa như là “xâm phạm” vào lãnh thổ TQ và do đó biện minh cho việc sử dụng vũ lực. Xem Trung Hoa nhân dân cộng hoà quốc ngoại giao báo 中华人民共和国外交部1974.
[7] Về Thuỷ lộ bạ (shuilubu thuỷ路簿) và cuối cùng là Canh lộ bạ (genglubu 更路簿) xem Kurz sắp công bố. Bản của Tô Đức Liễu 苏德柳 được công nhận là một tài liệu tham khảo quan trọng đối với các hoạt động liên tục của ngư dân TQ tại các đảo trong một bài báo đăng trên Nhân dân nhật báo năm 1976. Xem Nhân dân nhật báo 1976.
[8] Quảng Đông tỉnh Bác vật quán 广东省博物馆 1974. Các thành viên của cơ quan này đã thực hiện một cuộc điều tra khác vào năm 1975 với kết quả được công bố trên Quảng Đông tỉnh Bác vật quán 广东省1976.
[9] Wang Hengjie (Vương Hằng Kiệt 王恒杰) (1932-1996) đã giúp củng cố lập trường chính thức với việc tổng hợp hai báo cáo về nghiên cứu khảo cổ khẳng định sự hiện diện của TQ trên quần đảo Tây Sa và Nam Sa trong hơn 2 500 năm (Wang Hengjie 1992, 776-777) và hơn 2.000 năm (Wang Hengjie 1997, 68-69). Bài báo sau xuất hiện sau khi tác giả mất. Xu Yongjie (Hứa Vĩnh Kiệt 許永傑) và Fan Yiran (Phạm Y Nhiên 范伊然) 2012 cung cấp một bản tóm tắt các đợt nghiên cứu khảo cổ trên các đảo ở Biển Đông. Về sự không chắc chắn của bằng chứng khảo cổ học trên các đảo ở Biển Đông, xem Lassere 1999. Một trong những vấn đề lớn là không có cách chắc chắn nào để biết đồ gốm, tiền đồng và các đồ vật khác đã tới các đảo bằng cách nào.
[10] Deng Siyu (Đặng Tự Vũ) 1974.
([11] Ye Hanming (Diệp Hán Minh 葉漢明) và Wu Ruiqing (Ngô Thuỵ Khanh 吳瑞卿) 1974.
[12] Qi Xin (Tề Tâm 齐辛) 1974.
[13] Shao Xunzheng (Thiệu Tuần Chính 邵循正) 1956. Ju Jiwu 鞠继武 (Cúc Kế Vũ) 1954 có một phần (44-46) tập trung chủ yếu vào tài liệu của thế kỉ 19 và 20.
[14] “Chủ quyền của TQ đối với các đảo ở Biển Đông là không thể tranh cãi”. Đây là một tuyên bố lặp đi lặp lại giống như câu thần chú trong các tuyên bố chính thức liên tiếp. Xem, ví dụ, Bộ Ngoại giao CHNDTH 1980; 1988; 2011; 2015; 2016.
[15] Trong khi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đối thủ chính của TQ ở Biển Đông và Philippines đang lèo lái một tiến trình vòng vèo liên quan đến TQ, đặc biệt là dưới thời Tổng thống Duterte, các quốc gia ASEAN còn lại đã im lặng về vấn đề này. Như đã đề cập trước đó, Mĩ đang thách thức TQ với FONOP (hoạt đông tư do đi lại trên biển) mà một số trong đó đã được tiến hành tại quần đảo Hoàng Sa. Về FONOP của Hoa Kì cho đến năm 2017, xem Standifer 2017.
[16] Một bản dịch tiếng Anh của văn bản xuất hiện vào ngày 12 như là Shi (Sử) 1975. Tên của ba trong số các tác giả đã được biết: đó là Li Baotian 李宝田 (Lí Bảo Điền), Song Lifu 宋力夫 (Tống Lực Phu) và Zhu Dexiang 朱德祥 (Chu Đức Tường). Zhu Zhenhai 朱振海 (Chu Chấn Hải), người đi cùng với bộ ba này, làm việc tại Ban Địa mạo (địa mạo thất 地貌室 tại viện Khoa học). Các cơ quan hữu quan thưởng cho những nỗ lực của họ bằng cơ hội được làm thêm nghiên cứu ở quần đảo Tây Sa vào năm 1976. Năm 1977 “Sử lệ tổ” đã viết một báo cáo về chuyến đi này, “Tây Sa hành” 西沙行 trong Địa lí tri thức 地理知识 số 2 và 3. Tôi chưa tiếp xúc được ấn phẩm này. Họ có công bố bản hồi kí liên quan đến chuyến trải nghiệm này năm 2010. Xem “Sử lệ tổ” 2010. Lí Bảo Điền đã xuất bản một bài tiểu luận kỉ niệm chuyến đi đến quần đảo Tây Sa năm 1976. Xem Li Baotian 2016.
[17] Đầu tiên trong số này có lẽ là Tổ Nam sử Sở nghiên cứu Nam dương Đại học Hạ Môn 厦门大学南洋研究所南史组 1975. Bài báo của họ, kí tên “Nam sử tổ” 南史组, ngày 01 tháng 12 năm 1975.
[18] Tôi vẫn chưa tìm thấy một cách dịch chấp nhận được cho cụm từ này. Đá ốc xà cừ 9 vú là một lựa chọn có tính đến việc “Sử lệ tổ” cho là các rạn san hô ngập nước. Một lựa chọn khác là coi Cửu Nhũ Loa là dạng thông tục xác định đá hoặc nhiều đá.
[19] Tiêu đề này có thể ít nhất đã gây hứng cho một bài viết có tựa và lập luận tương tự. Xem Lin Ronggui (Lâm Vinh Quý 林荣贵) 1990.
[20] Xem Hayton 2014, đặc biệt là 29-60, và, gần đây hơn, Hayton 2018a and 2018b.
[21] Chen Mao (Trần Mậu 陈茂) dưới quyền Zhou Chang (Chu Xưởng 周敞), Thứ sử Yuzhou 禹州 (Vũ Châu) ở miền trung TQ, người đã trao cho ông vị trí phụ tá. Xem Thái Bình ngự lãm 263.1b (trang 1230).
[22] Taiping yulan (Thái Bình ngự lãm) 60.1b (trang 287).
[23] Tuy nhiên, Jianming Shen (Thân Kiến Minh 申建明) đã khẳng định ngay điều này qua việc thay đổi lời văn gốc một chút để đọc chệch thành “hành bộ trướng hải” 行部涨海 và dịch nó thành “một cuộc thị sát và tuần tra của hải quân trên các đảo ở Biển Đông”. Xem Shen 1997, 18.
[24] Nan Mingzi (Nam Minh Tử 南溟子) là bút danh của nhà sử học Chen Jiarong (Trần Giai Vinh 陈佳荣). Bài báo đang bàn là Nan Mingzi n.d. Trong bản gốc của bài viết – Chen Jiarong 1982 – Chen không dẫn mục trong Hậu Hán thư.
[25] Chuxueji (Sơ học kí) 6.115.
[26] Taiping yulan (Thái Bình ngự lãm) 790,7b (tr. 3501).
[27] Xem, ví dụ, Han Zhenhua (Hàn Chấn Hoa 韩振华) 1988, 23; Bộ Ngoại giao CHNDTH 2000; THDQ 2016.
[28] Ye / Wu 1974, 10, cũng đề cập đến Dị vật chí. Nếu như “Sử lệ tổ” có tiếp xúc bài viết này, có thể họ đã sử dụng nó vì nó xưa hơn Nam châu dị vật chí.
[29] Yiwu zhi (Dị vật chí), 3. Lưu ý rằng cụm từ có liên quan trong Dị vật chí, được trích dẫn trong Zhengde Qiongtai zhi 正德琼台志(Chánh Đức Quỳnh Đài chí: Sách ghi chép về Quỳnh Đài thời Chánh Đức) 42,14b, hơi khác so với cụm từ trong tập đã chỉnh sửa của Dị vật chí.
[30] Bộ Ngoại giao CHNDTH 2000.
[31] Bộ Ngoại giao CHNDTH 2000.
[32] Các ấn phẩm đầu tiên bằng tiếng Anh kể từ nửa sau thập niên 1970 đã chấp nhận các yêu sách lịch sử của TQ và đến lượt nó trở thành tài liệu tham khảo được trích dẫn trong các nghiên cứu sau này. Xem Hayton 2018b, 4.
[33] Taiping yulan (Thái Bình ngự lãm) 988.3a (tr. 4372).
[34] Shen Jianming 2002, 113-114.
[35] Trong Shen Jianming 1997, 18, thuật ngữ qitou (khi đầu) bao hàm tất cả những ý nghĩa này.
[36] Trong bài viết trước đó, Shen thậm chí còn “dịch” lời văn sai hơn: Các quan làm nhiệm vụ tuần tra đi thuyền lớn đều phải đổi sang thuyền nhỏ để đến khu vực này […].” Xem Shen 1977,19.
[37] Manguin 1980, 274.
[38] Chỉ vào cuối cuối thế kỉ 19, người đi biển mới có thông tin cụ thể hơn về các vị trí của bãi cạn, đảo san hô và các rạn đá ngầm. Cho đến lúc đó, tàu thuyền thường đi theo các tuyến đường biển an toàn hơn được xác lập rõ dọc theo bờ biển của Đông Nam Á. Xem Minh Hà Phạm 2016.
[39] Chen Jiarong 2006.
[40] Shanhuzhou (san hô châu) là một cụm từ mơ hồ khác nhưng vẫn được một số tác giả TQ hiện đại xác định là để chỉ tất cả các đảo ở Biển Đông. Xem, ví dụ, Liu Nanwei (Lưu Nam Uy 刘南威) 1996, 13-14.
[41] Taiping yulan 69.3b (327). Xem thêm Han Zhenhua (Hàn Chấn Hoa 韩振华) 1988, 25. Về san hô, xem Ptak 1990.
[42] Ptak 2007, 236.
[43] Xem phần thảo luận chi tiết về thuật ngữ zhanghai (trướng hải) trong Ptak 2004.
[44] Ye và Wang 1974 đã giới thiệu Quảng Châu thông hải di đạo 广州通海夷道 (Các tuyến đường biển từ Quảng Châu đến các nước phiên di), do Jia Dan (Giả Đam 贾耽) (730-805) biên soạn, như là nguồn chính của họ từ thời Đường. Mô tả tuyến đường từ Quảng Đông đến Đông Nam Á, được tìm thấy ở Tân Đường thư (1060) 43A.1153. Han Zhenhua 韩振华 đã tìm cách lấp đầy thêm khoảng trống Tuỳ Đường. Trong số các công trình khác ông đề xuất rằng Tuỳ thư 隋书(656; lịch sử chính thức nhà Tuỳ), chứa một ghi chép nhiều chuyến đi thường xuyên đến quần đảo Tây Sa mà ông nghĩ đã được gọi tên bằng cụm từ Jiaoshishan 礁石山 (Tiều thạch sơn), rằng Thông điển 通典 (lịch sử bách khoa của các tổ chức của chính phủ; 801) ghi nhận các quan chức đi thuyền qua khỏi quần đảo Tây Sa (Tiều thạch sơn), và rằng Quảng Châu thông hải di đạo đã lưu ý về quần đảo Tây Sa với tên gọi là Xiangshi 象石 (Tượng thạch). Xem Han Zhenhua 1988, 29-31.
[45] Ye và Wu trích dẫn mục có liên quan (tam hợp lưu 三合流) trọn vẹn, nhưng vẫn đi đến kết luận tương tự như “Sử lệ tổ”. Xem Ye / Wu 1974, 11.
[46] Đây là một trích dẫn từ Zhuangzi 庄子 (Trang Tử), “Thu thuỷ” 秋水. Xem https://ctext.org/zhuangzi/floods-of-autumn/zh, truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2018. Tôi sử dụng bản dịch của Burton Watson. Xem https://terebess.hu/english/chuangtzu1.html #17, truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2018.
[47] Lingwai daida jiaozhu 岭外代答校注 (Lĩnh ngoại đại đáp hiệu chú), 36.
[48] Yang Wuquan (Dương Vũ Tuyền 杨武泉), biên tập viên hiện đại của Lĩnh ngoại đại đáp, giải thích rằng cụm từ này biểu thị cả quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và quần đảo Trung Sa. Xem Lĩnh ngoại đại đáp hiệu chú, 37.
[49] Yudi jisheng 舆地纪胜 (Dư địa kí thắng) 127.3b (tr. 3622). Lưu ý rằng Su Jiqing không chính xác khi dẫn juan (quyển) 27 của Dư địa kí thắng trong bài bình luận của mình cho Đảo di chí lược như là nơi mà Quỳnh quản chí được trích dẫn về vạn lí thạch đường. Xem thêm thảo luận về nguồn này trong Ptak 1997, 165, chú thích 14.
[50] Hsu 1988, 96-97, giải thích rằng không có hải đồ nào trong giai đoạn được đề cập là còn tồn tại. Việc xác định các thực thể địa lí trong văn bản gốc được để lại cho Lin Jinzhi (Lâm Kim Chi 林金枝), người đề xuất rằng trong thời nhà Tống trường sa chỉ quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và thạch đường chỉ quần đảo Nam Sa (Trường Sa). Xem Lin Jinzhi 1979, 102.
[51] Xem Ptak 1997, 161-165.
[52] Triệu Nhữ Quát 赵汝适, trong Zhufan zhi jiaoshi 诸蕃志校释 (Chư phiên chí giáo thích), 1. Tham khảo bản “dịch” của Jianming Shen: “ Khi tôi hỏi liệu họ có các ghi chép về những người man rợ không, họ không có ghi chép nào […]”. Shen đã thay đổi chủ từ từ “các ghi chép” thành “họ” ẩn danh, và thay thế chủ đề, các thể địa lí và khu vực biển, thành “bọn man di”. Do đó, Shen đã làm cho việc Triệu Nhữ Quát thực sự sở hữu một bản đồ cho thấy sàn đá và bãi cát dài thành có thật. Xem Shen Jianming 2002, 118.
[53] Lingwai daida jiaozhu (Lĩnh ngoại đại đáp hiệu chú), 126.
[54] Jiaoyang (Giao dương) có lẽ đồng nhất với biển ở miền bắc Việt Nam (Giao Chỉ). Về Giao Chỉ dương xem Li Tana 2006a và Li Tana 2006b. Zhuyu (Trúc dư: đảo Trúc) bày ra một vấn đề cho các nhà bình luận hiện đại. Ví dụ, Han Zhenhua 韩振华 (Hàn Chấn Hoa) tin rằng nó là Borneo trong khi Zhen Binghua 甄炳华(Chân Bỉnh Hoa) thích chọn Pulau Aur ngoài khơi bờ biển phía đông của bán đảo Malaysia như vị trí cho đảo Trúc hơn. Xem Han Zhenhua 1984, 88 và Zhen Binghua 2014, 87.
[55] Wujing zongyao (Vũ kinh tổng yếu) 21.16ab (tr. 1055-1056). Đồn Môn sơn rất có thể chỉ đến một trại lính được thành lập trong triều đại nhà Đường ở huyện Bảo An (Bảo An huyện宝安县) để chống cướp biển. Trong triều đại nhà Tống, Đồn Môn sơn cũng được gọi là Đồn Môn. Chiêm Bất Lao sơn có thể nói đến một chuỗi các hòn đảo nhỏ tên là Cù Lao Chàm ngoài khơi Việt Nam gần Đà Nẵng. Khi đó, Hoàn Châu là một nước trong khu vực đó, và cái tên này có lẽ chỉ Champa.
[56] Yangfeng jiyao (Dương phòng tập yếu) 1.8a (27).
[57] Để làm ổn thoả việc đặt Cửu Nhũ Loa châu ở quần đảo Hoàng Sa, Han Zhenhua đã diễn giải lại các tài liệu có được và tính toán lại khoảng cách và thời gian đi thuyền. Han đưa ra một Thất Châu dương 七州洋 gần đảo Chiêm Bất Lao, khác với quần đảo Thất Châu dương七洲洋 mà nhiều người khác đã xác định là quần đảo Taya. Do đó, Cửu Nhũ Loa châu bị chuyển vị trí tới quần đảo Hoàng Sa. Xem Han Zhenhua 1981, 5.
[58] Một trong số ít các học giả TQ bác bỏ việc đồng nhất Thất Châu dương với quần đảo Hoàng Sa là nhà địa lí học nổi tiếng Tan Qixiang 谭其骧 (Đàm Kì Tương) mà đối với ông cụm từ này dùng chỉ Thất Châu liệt đảo 七洲列岛 ở phía đông bắc Hải Nam. Xem Tan Qixiang 1979. Tôi chưa tiếp xúc với bài viết này vốn được dẫn trong Liu Yijie (Lưu Nghĩa Kiệt 刘义杰) 2016, 29.
[59] Đối với Ye và Wu 1974, 12, mục có liên quan nhất trong Menglianglu (Mộng lương lục) như sau: “Từ xưa, người đi thuyền có nói: ‘Khi đi thì sợ Thất Châu, khi về thì sợ Côn Lôn, ở đó nước sâu hơn 50 zhang (trượng) (自古舟人云去怕七洲囘怕崑崙 亦深五十餘丈: tự cổ chu nhân vân khứ phạ Thất Châu hồi phạ Côn Lôn diệc thâm ngũ thập dư trượng). Đối với Ye và Wu, nó biểu thị những mối nguy hiểm mà người đi biển phải đối mặt quanh quần đảo Hoàng Sa (Thất Châu dương 七洲洋) cũng như Biển Đông (Côn Lôn dương 崑崙洋) nói chung. Về trích dẫn này xem Menglianglu 12.15a. Về một giải thích chi tiết cho cái ông ta gọi là một câu tục ngữ, xem Liu Yijie 2016.
[60] Yuanshi (Nguyên sử) 162.3799
[61] Tuy nhiên, Shen đã có Shibi (Sử Bật) và quân lính của ông này “đi thuyền [..] xuyên qua [tôi nhấn mạnh] Thất Châu dương và Vạn Lí Thạch Đường”, hay quần đảo Tây Sa và Nam Sa theo cách hiểu của ông. Xem Shen Jianming 1997, 27.
[62] Xem Zheng He hanghai tu (Trịnh Hòa hàng hải đồ), “Vũ bị chí”, 240.11a (tr. 40).
[63] Lin Jinzhi (Lâm Kim Chi林金枝) tự mình dùng nó để xác định các tên gọi. Ông khẳng định phần phía tây của quần đảo Hoàng Sa là bờ đá (shitang: thạch đường), có giải thích thêm rằng “ngư dân Hải Nam cho đến ngày nay thường nhắc đến nhóm đảo Vĩnh Lạc (Vĩnh Lạc quần đảo 永乐群岛) ở phía tây quần đảo Tây Sa là shitang (thạch đường)”. Đối với chi tiết thứ hai này, ông không cung cấp tài liệu tham khảo. “Bờ đá sao đá” đối với Lâm Kim Chi không những chỉ quần đảo Đông Sa mà “rất có khả năng” (ngận khả năng 很可能) còn bao gồm cả quần đảo Trung Sa (Macclesfield). Hoàn toàn tự nhiên là điều đó khiến chỉ còn quần đảo Nam Sa (Trường Sa) như là địa điểm có khả năng nhất cho “bãi đá đá mười ngàn kiếp”. Cho điều này Lâm Kim Chi đã chủ yếu dựa trên những bình luận của Hướng Đạt trong phần chỉ mục của Zhang He hanghai tu. Xem Lin Jin Chi 1979, 104.
[64] Haiyu (Hải ngữ), 3.2a và 2b (34-35). Lâm Kim Chi giải thích bằng chứng này như sau: “Hải ngữ không chỉ là tài liệu đầu tiên thay trường sa 长沙 thời Tống và thời Nguyên (cũng như thiên lí trường sa 千里长沙) bằng vạn lí trường sa 万里长沙, mà quan trọng hơn nólà tài liệu đầu tiên xác định trường sa (hay thiên lí trường sa) mà thời Tống đã dùng để gọi quần đảo Tây Sa, là quần đảo Nam Sa, và xác định thạch đường石塘 (hay vạn lí thạch đường万里 石塘) mà thời Tống đã dùng để gọi quần đảo Nam Sa, là quần đảo Tây Sa, và như vậy đảo ngược hai tên gọi.” Xem Lin Jinzhi 1979, 106.
[65] Liu Shen (Lưu Thâm) bắt được Yu Rugui 俞如珪 (Du Như Khuê) vào cuối tháng 12 năm 1277 tại Thất Châu dương 七州洋. Xem Tống sử 47.944.
[66] Dong Xi yang kao (Đông tây dương khảo), q. 9.172.
[67] T’ien Ju-k’ang 1982 đã chất vấn về tính xác thực của Shunfeng xiangsong (Thuận phong tương tống) như một công trình độc lập và coi nó như một bản sao của Duhai fangcheng 渡海方程 (Độ hải phương trình) (1537; Mileage of Ocean cross). Điều đó sẽ làm cho Thuận phong tương tống trở thành một công trình giữa thế kỉ 16.
[68] Liangzhong haidao zhenjing (Lưỡng chủng hải đạo châm kinh), 27-28.
[69] Liangzhong haidao zhenjing, 33.
[70] Liangzhong haidao zhenjing, 108 và 117, tương ứng.
[71] Bản đồ 5: https://www.nansha.org.cn/maps/1/dong_yang_nan_yang_hai_dao_tu.html, truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2019. Để biết thêm về “Đông dương Nam dương hải đạo đồ”, xem Fang Biyong 方碧勇 (Phương Bích Dũng) 2016.
[72] Haiguo wenjieanlu (Hải quốc văn kiến lục), A.20b, “Nanyangzhi” 南洋志 (Nam dương chí). Zhongguo Gujin diming dacidian 中国古今地名大辞典(TQ cổ kim địa danh đại từ điển) cũng như Zheng Ziyue 郑资约 (Trịnh Tư Ước) trích dẫn một phiên bản khá khác với mục từ này: “Thất Châu Dương nằm ở phía đông nam của huyện Vạn trên đảo Hải Nam thuộc Quảng Đông. Những ai đi đến đại dương phía Nam chắc chắn đi ngang qua nó. Về phía đông bắc của nó là một bãi cát dài, một bờ đá và nhiều rạn san hô khác, và tàu thuyền đi qua đó phải thận trọng. Theo truyền thuyết, trong đại dương này có những con chim mũi tên (tiễn điểu) sinh sống, và khi những con tàu đi vào đại dương này, thì những con chim bay đến dẫn đường giúp”. Xem Zhongguo gujin diming dacidian 1931, 4-5; và Zheng Ziyue 1947, 75. Có thể là Trịnh Tư Ước đã sao chép trích dẫn của ông về Hải quốc văn kiến lục từ công trình tham khảo địa lí trước đó.
[73] Yinghuan zhilue (Doanh hoàn chí lược), 1 “Á Tế Á Nam dương tân hải các quốc” 亚细亚南洋滨海各国. Để biết thêm về Xu Jiyu 徐继畬 (Từ Kế Dư) (? -1873) và tác phẩm của ông xem Drake 1975.
[74] Frodsham 1974, 11. Hayton loại không coi đoạn văn này như là bằng chứng của chính quyền TQ đối với các đảo vì đây không phải là một yêu sách lãnh thổ được ban hành chính thức, mà chỉ là một ghi chú trong một cuốn nhật kí. Hơn nữa Hayton còn nghĩ rằng trước đây chính phủ TQ không hề biết về những hòn đảo này, đó có thể là lí do vì sao Quách Tung Đảo không đề cập đến chúng ngay từ đầu. Xem Hayton 2017, 22-23.
[75] Han Zhenhua (Hàn Chấn Hoa) đã bác bỏ ý kiến cho rằng cái tên Paracel Islands (quần đảo Hoàng Sa) của phương Tây trong suốt thế kỉ 17 đến thế kỉ 19 để chỉ quần đảo Hoàng Sa. Thay vì vậy, Han giải thích, cái tên Paracel Islands được sử dụng cho các đảo ngoài khơi Việt Nam. Do đó, lập luận của Han đã bác bỏ hiểu biết của phương Tây về quần đảo Hoàng Sa, và cũng bác bỏ việc thủy thủ phương Tây đặt tên cho các đảo này mà vào thời điểm đó và cho đến thế kỉ 19 không có một tên gọi chính thức thích đáng nào của TQ. Xem Han Zhenhua 1980. Tương tự, ông cũng loại bỏ các yêu sách của Việt Nam khi gọi 2 quần đảo Tây Sa và Nam Sa với các tên tiếng Việt. Xem Han Zhenhua và Wu Fengbin 1980.
[76] Daoguang Wanzhou zhi (Đạo Quang Vạn Châu chí) 3.15b.
[77] (Qianglong) Quanzhou fu zhi ((Càn Long) Tuyền Châu phủ chí) 56,43b-44a.
[78] (Kangxi) Wenchang xian zhi (Khang Hi) Văn Xương huyện chí) 1.10b.
[79] Thất Châu liệt đảo cũng như Tứ Canh Sa Giác được liệt kê trong Tuyên bố của Chính phủ CHNDTH về đường cơ sở của lãnh hải, ngày 15 tháng 5 năm 1996. Xem http://www.un.org/Depts/los/LEGISLATIONANDTREATIES/PDFFILES/CHN_1996_Declaratio n.pdf, truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2018, để biết văn bản tiếng Anh. Bản tiếng Trung, xem https://web.archive.org/web/20070216040721/http://www.soa.gov.cn/law/960515a.htmlm, truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2018.
[80] Cùng câu này trích từ Tuyền Châu phủ chí xuất hiện vào cuối năm 2016 trong một bài báo được xuất bản sau phán quyết trọng tài tháng 7 năm 2016 và sau đó như trước đây được sử dụng để nhấn mạnh việc hải quân TQ kiểm soát Biển Đông trong thế kỉ 18. Xem Chai Yifei 2016.
[81] Yangfang jiyao (Dương Phòng tập yếu) 1.15.
[82] Dương Phòng tập yếu 1.27.
[83] Daoguang Qiongzhou fu zhi (Đạo Quang Quỳnh Châu phủ chí) 18A.15b.
[84] “Sử lệ tổ” tiếp đó dẫn các bản đồ chính thức như “Hoàng Thanh các trực tỉnh phân đồ” 皇清各直省分图 1755 và “Đại Thanh nhất thống thiên hạ đồ” 大清一统天下图 năm 1817. Cho đến nay tôi chưa tiếp xúc với các bản đồ này, vì vậy không thể xác nhận hay loại bỏ khẳng định của “Sử lệ tổ” rằng những bản đồ này có vẽ các đảo ở Biển Đông.
[85] Bộ Ngoại giao CHNDTH 2000a.
[86] Một trong những bài viết mới nhất là của Li Jinming (Lí Kim Minh 李金明) 2018.
[87] Zhongguo kexueyuan dili yanjiu suo lishi dili zu (Tổ Lịch sử địa lí, Sở Nghiên cứu Địa lí, Viện khoa học TQ) 1976. Từ thập niên 1950 trở đi, các nhà sinh học và nhà địa chất đã công bố một số lượng bài báo khiêm tốn về hệ động vật, thực vật và địa chất của các đảo ở Biển Đông. Xem, ví dụ, Zhongguo kexueyuan nanhai haiyang yanjiusuo shengwushi ziyuanzu (Tổ tài nguyên, Phòng Sinh vật, Sở Nghiên cứu biển Nam hải, Viện khoa học TQ) 1975.
[88] Xem đặc biệt là số 6 (1979) và 3 (1981) trong đó Han Zhenhua, Wu Fengbin 吴风斌 (Ngô Phong Bân) và Lin Jinzhi (Lâm Kim Chi) đã viết về các đảo ở Biển Đông và khu vực biển xung quanh là lãnh thổ của TQ theo quan điểm của một nhà sử học.
[89] Xem Hayton 2014, 82-84.
[90] Ví dụ: Zhu Qiwu (Chu Kì Vũ) và Zhu Qiwu 1991.
[91] Li Guoqiang (Lí Quốc Cường) 2009, 53.
[92] Các bài viết khác mà Lí chỉ đến là của Lin Jinzhi (Lâm Kim Chi) 1979, Lao Zude (Lao Tổ Đức 劳祖德) 1979, Han Zhenhua (Hàn Chấn Hoa) 1980, Zhang Hongzeng (Trương Hồng Tăng 张鸿增) 1980, và Dai Kelai (Đái Khả Lai 戴可来) 1980. Tôi chỉ đọc được bài của Lin Jinzhi (Lâm Kim Chi) 1979, nhưng không đọc được những bài khác dù sao có thể tìm thấy trong thư mục. Jiang Hongyi (Giang Hồng Nghĩa 江红义) và Zhou Li (Chu Lí 周理) vào năm 2013 đã đưa “Sử lệ tổ” vào vị trí đầu tiên chính đáng trong danh sách của họ vốn cũng bao gồm cùng các tác giả và cùng các bài viết. Xem Giang Hồng Nghĩa / Chu Lí 2013, 17.
[93] Liu Yanhua (Lưu Diên Hoa) 2016.
[94] Zhonghua renmin gongheguo waijiaobu (Bộ ngoại giao CHNDTH) 1980a. Đối với bản văn xem thêm Zhonghua renmin gongheguo waijiaobu 1980b. Bộ Ngoại giao đánh giá cao những nỗ lực của ông và ca ngợi ông đã “thực hiện một đóng góp hữu ích cho cuộc đấu tranh đối ngoại của TQ” (vi ngã quốc đối ngoại đẩu tranh tác xuất liễu hữu ích đích cống hiến 为我国对外斗争作出了有益的贡献). Xem Wang Chunyu 2011.
[95] Hayton nhận thấy số lượng các công trình được dịch còn ít ỏi và việc chấp nhận chúng không phê phán như là các ghi chép lịch sử thật, là một vấn đề lớn trong các cuộc thảo luận về Biển Đông kể từ năm 1970. Xem Bill Hayton 2018b.
[96] Về một tóm tắt sát đúng những tranh chấp cho đến năm 2013, hãy xem Vutz 2013.
[97] Vì số lượng bài báo khá lớn, tôi chỉ chỉ ra cho người đọc các tài liệu đại diện như Zhou Zhaorui (Chu Triệu Duệ) 1978, Lu Linsong (Lư Lâm Tùng) 1991 và He Ciyi (Hà Từ Nghị) 1993.
[98] Xem Zhu Changdu 朱昌都 / Chang Baolan 1996 và Zhong Yan 1996. Lưu ý rằng cụm từ “quần đảo Điếu Ngư là lãnh thổ của TQ từ xa xưa” (Điếu Ngư đảo tự cổ dĩ lai thị TQ lãnh thổ 钓鱼岛自古以来是中国领土) là câu đầu tiên trong bài viết trước, và tiêu đề đầu tiên trong bài thứ hai.
[99] Dù theo cách tiếp cận pháp lí này đối với vấn đề, các bài báo vẫn đang được đưa ra để hậu thuẫn cho lập luận lịch sử phi pháp lí. Xem, chăng hạn, Dongnanfeng 2013, Zheng Hailin 2014 và Wan Ming 2016.
[100] Mặt khác, căng thẳng gia tăng giữa TQ với Mĩ, Nhật Bản và Việt Nam, không phải diễn ra không có sự chú ý của NATO. Bộ trưởng NATO Jens Stoltenberg năm 2017 đã nêu rõ quan điểm của NATO và nhấn mạnh giải pháp cho “các tranh chấp biển” ở Biển Đông lẫn Biển Hoa Đông là phải theo luật pháp quốc tế. Xem Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương 2017.
__________
Tài liệu tham khảo
- Asia Maritime Transparency Initiative (Sáng kiến minh bạch biển châu Á). “Subi Reef”. https://amti.csis.org/subi-reef/, truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2019.
- Chai Yifei 柴逸扉(Sài Dật Phi). “Hữu chí vi chứng— Nam hải chư đảo tự cổ thuộc TQ,” 有志为证—南海诸岛自古属中国, Nhân dân nhật báo ngoại bản 人民日报外板 20 tháng 7 năm 2016, 4. http://paper.people.com.cn/rmrbhwb /html/2016-07/20/content_1696801.htm, truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2016.
- Chen Jiarong 陈佳荣 (Trần Giai Vinh). “Trướng hải khảo” 涨海考, Học báo Viện Dân tộc Trung ương 中央民族学院学报 1982,1, 61-64, 75.
- Chen Jiarong 陈佳荣 (Trần Giai Vinh). Ngoại quốc truyện 外國傳. Hồng Kông: Hương Cảng Tân Hoa Xã Thái Ấn 香港新华彩印, 2006.
- China Power Team. “How much trade Transits the South China Sea” (Có bao nhiêu hang hoá giao thương đi qua Biển Đông). https://chinapower.csis.org/much-trade-transits-south-china-sea/, truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2019.
- Chinese Society of International Law (Hiệp hội Luật quốc tế TQ). “The South China Sea Arbitration Awards: A Critical Study (Phán quyết Trọng tài Biển Đông: Một nghiên cứu quan trọng)”, Chinese Journal of International Law (Tạp chí Luật quốc tế TQ) 17.2 (2018), 207-748.
- Chuxueji 初學記 (Sơ học kí: Ghi chú cho người mới bắt đầu), do Xu Jian 徐堅 (Từ Kiên) và các người cộng tác biên soạn. Bắc Kinh: Trung Hoa, 1962.
- Dabringhaus, Sabine và Roderich Ptak (chủ biên ). China and Her Neighbours: Borders, Visions of the Other, Foreign Policy 10th to 19th Century (TQ và các láng giềng: Biên giới, Những cách nhìn của nước khác, Chính sách đối ngoại thế kỉ 10 đến thế kỉ 19). Wiesbaden: Harrassowitz, 1997.
- Dai Kelai 戴可来 (Đái Khả Lai). “Lậu động bách xuất, dục cái di chương” 漏洞百出, 欲盖弥彰. Guangming Ribao 光明日报 (Quang Minh nhật báo) ngày 09 tháng 6 năm 1980.
- Daoguang Qiongzhou fuzhi 道光瓊州府志 (Đạo Quang Quỳnh Châu phủ chí), do Ming Yi 明誼 (Minh Nghị) biên soạn. Zhongguo fangzhiku 中國方志庫 (TQ phương chí khố ). http://server.wenzibase.com, truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2018.
- Daoguang Wanzhou zhi 道光萬州志 (Đạo Quang Vạn Châu chí), do Hu Duanshu 胡端書 (Hồ Đoan Thư) soạn. Zhongguo fangzhiku 中國方志庫 (TQ phương chí khố ). http://server.wenzibase.com, truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2018.
- Deng Siyu 鄧嗣禹 (Đặng Tự Vũ). “Nan Zhongguohai zhudaoyu de zhuquan wenti” 南中國海諸島嶼的主權問題 (Nam TQ hải chư đảo tự đích chủ quyền vấn đề), Mingbao yuekan 明报月刊 (Minh báo nguyệt sơn) 101.5 (1974), 2-8.
- Dongnanfeng 东南 风 (Đông Nam Phong). “Luận Điếu Ngư đảo chủ quyền thuôc vu TQ”’ 论钓鱼岛主权属于中国, Đông Nam học thuật 东南学术 2013.4, 4-14.
- Dong Xi yang kao 東西洋考 (Đông tay dương khảo: Về các đại dương phía đông và phía tây), do Zhang Xie 張燮 (Trương Tiếp) biên soạn. Xem Xie Fang 2000.
- Drake, Fred. China Charts the World: Hsü Chi-yü and His Geography of 1848 (TQ vẽ bản đồ thế giới: Hsü Chi-yü và Địa lí của ông năm 1848). Cambridge, MA: Đại học Harvard, 1975.
- Dupuy, Florian và Pierre-Marie Dupuy. “A Legal Analysis of China’s Historic Rights Claim in the South China Sea (Một phân tích pháp lí về yêu sách quyền lịch sử của TQ ở Biển Đông)”, The American Journal of International Law (Tạp chí Luật quốc tế Hoa Kì) 107.1 (2013), 124-141.
- Fang Biyong. “Hạ Môn quốc tế hóa dịch cổ địa đồ— đông dương nam dương hải đạo đồ” 厦门国际货易古地图—东洋南洋海道图, Phúc Kiến tri thức 福建知识 2016.3, 42-45.
- Foreign Ministry of the People’s Republic of China (Bộ Ngoại giao CHNDTH). “Historical Evidence To [sic] Support China’s Sovereignty over Nansha Islands (Bằng chứng lịch sử hậu thuẫn chủ quyền của TQ đối với quần đảo Nam Sa)”. https://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/topics_665678/3754_666060/t19231.shtml, ngày 17 tháng 11 năm 2000, truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2018.
- Foreign Ministry of the People’s Republic of China. “TQ có chủ quyền không thể chối cãi đối với các đảo Biển Đông: phát ngôn viên, ngày 30 tháng 6 năm 2011 https://www.fmprc.gov.cn/ce/cetur/eng/xwdt/t836350.htm, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2018.
- Foreign Ministry of the People’s Republic of China. “Quyết định của Bộ Ngoại giao CHNDTH về việc thành lập Tòa Trọng tài trong vụ Trọng tài Biển Đông theo yêu cầu của Cộng hòa Philippines” 中华人民共和国外交部关于应菲律宾共和国请求建立南海仲裁案仲裁庭关于管辖权和可爱理性 问题 裁决 的, ngày 30 tháng 10 năm 2015. https://www.fmprc.gov.cn/web/ziliao_ 674904/1179_674909 / t1310470.shtml, truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2018.
- Foreign Ministry of the People’s Republic of China. “TQ phát hiện và đặt tên các đảo ở Biển Đông trước nhất” 中国最早发现并命名南海诸岛, 23 tháng 5, 2016. https://www.fmprc.gov.cn/ce/ceph/chn/zt/nhwt/t1365622.htm, truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2018.
- Freund, Eleanor. “Freedom of Navigation in the South China Sea: A Practical Guide (Tự do hàng hải ở Biển Đông: Hướng dẫn thực tế)”. https://www.belfercenter.org/publication/freedom-navigation-south-china-sea-prreal-guide, tháng 6 năm 2017, truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2019.
- Frodsham, J.D. The First Chinese Embassy to the West: The Journals of Kuo Sung-t’ao, Liu Hsi-hung and Chang Te-yi (Đoàn sứ đầu tiên của TQ tới phương Tây: Nhật kí của Quách Tung Đảo 郭嵩焘, Lưu Tích Hồng 刘锡鸿 và Trương Đức Di 张德彝). Oxford: Clarendon, 1974.
- Guangdong sheng bowuguan 广东省博物馆 (Quảng Đông tỉnh bác vật quán: Bảo tàng tỉnh Quảng Đông). “Quảng Đông tỉnh Tây Sa quần đảo văn vật điều tra giản báo” 广东省西沙群岛文物调查简报, Wenwu 文物1974,10, 1-29.
- Guangdong sheng bowuguan “Quảng Đông tỉnh Tây Sa quần đảo đệ nhị thứ văn vật điều tra giản báo” 广东省西沙群岛第二次文物调查简报, Wenwu 文物1976,9, 9-27.
- Haiguo wenjien lu 海國聞見 (Hải quốc văn kiến lục: Ghi lại những điều nhìn thấy và nghe về các nước ngoài biển), do Chen Lunjiong 陳倫炯 (Trần Luân Quýnh) soạn. Zhongguo shixue congshu xubian, 35. Đài Bắc: Taiwan xuesheng, 1984 [https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&chapter=477750, truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2018].
- Hailu 海錄 (Hải lục: Ghi chép về biển). Zhongguo shixue congshu xubian, 35. Đài Bắc: Taiwan xuesheng, 1984.
- Haiyu 海語 (Hải ngữ: Trò chuyện về biển). Zhongguo shixue congshu xubian, 35. Đài Bắc: Taiwan xuesheng, 1984.
- Han Zhenhua 韩振华 (Hàn Chấn Hoa). “Tây phương sử tịch thượng đích Phạ lạp tắc (Pà lā sài) nhĩ bất thị ngã quốc Tây Sa quần đảo 西方史籍上的帕拉塞尔不是我国西沙群岛, Quang Minh Nhật báo 光明日报 ngày 5 tháng 4 năm 1980.
- Han Zhenhua. “Qizhouyang kao” 七州洋考 (Thất Châu dương khảo), Nanyang wenti 南洋问题 (Nam dương vấn đề) 1981.3, 1-31.
- Han Zhenhua. “Ngã quốc lịch sử thượng đích nam hải hải vực cập kì giới hạn” 我国历史上的南海海域及其界限, Nanyang wenti 南洋问题 1984.1, 81-101.
- Han Zhenhua. “Ngã quốc Nam hải chư đảo lịch sử hối biên” 我国南海诸岛历史汇编. Bắc Kinh: Đông Phương, 1988.
- Han Zhenhua và Wu Fengbin 吴风斌 (Ngô Phong Bân). “Tây Sa quần đảo hòa Nam Sa quần đảo tự cổ dĩ lai tựu thị TQ đích lãnh thổ” 西沙群岛和南沙群岛自古以来就是中国的领土, Nhân dân nhật báo 人民日报 ngày 07 tháng 4 năm 1980, 4.
- Hayton, Bill. The South China Sea: The Struggle for Power in Asia (Biển Đông: Cuộc tranh giành quyền lực ở châu Á). New Haven: Nhà xuất bản Đại học Yale, 2014.
- Hayton, Bill. “When Good Lawyers Write Bad History”, Ocean Development and International Law (“Khi luật sư giỏi viết sử tồi”, Phát triển đại dương và luật quốc tế 48.1 (2017), 17-34.
- Hayton, Bill. “The Modern Origins of China’s South China Sea Claims: Maps, Misunderstandings, and the Maritime Geobody”, (Nguồn gốc hiện đại của các tuyên bố về Biển Đông của TQ: Bản đồ, hiểu lầm và Địa thể biển), Modern China 45.2 (2019), 127-170. [Hayton 2018a]
- Hayton, Bill. “Writing the History of the South China Sea Disputes (Viết lịch sử tranh chấp Biển Đông TQ)”, trong: Spangler / Karalekas / Lopes de Souza 2018, 3-24. [Hayton 2018b]
- He Ciyi 何慈毅 (Hà Từ Nghị). “Quyền sở hữu quần đảo Điếu Ngư và các đảo khác từ một số nguồn lịch sử” 从几则历史资料看钓鱼岛等岛屿的归属, Dongnan wenhua 东南化化 (Đông Nam văn hoá) 1993.1, 249-255.
- Hồ Văn Kỳ-Thoại. “Naval Battle of the Paracels” (Trận hải chiến của quần đảo Hoàng Sa), trong: Taylor 2014, 153-158.
- Hsu, Mei-ling. “Chinese Marine Cartography: Sea Charts of pre-Modern China”(Bản đồ học biển TQ: Hải đồ của TQ tiền hiện đại), Imago Mundi 40 (1988), 96-112.
- Jiang Hongyi 江红义 (Giang Hồng Nghĩa) và Zhou Li 周理 (Chu Lí). “Hồi tưởng và suy ngẫm về nghiên cứu các vấn đề Biển Đông” 关于南海问题研究的回顾与反思—兼论海洋政治分析的基本要点, Diễn đàn kinh tế và chính trị thế giới 世界经济与政治论坛 2013,4, 12- 29.
- Ju Jiwu 鞠繼武 (Cúc Kế Vũ). Tổ quốc đích Nam hải chư đảo 祖國的南海諸島. Thượng Hải: Xin zhishi, 1954.
- Kopela, Sophia. “Historic Titles and Historic Rights in the Law of the Sea in the Light of the South China Sea Arbitration (Quyền sở hữu lịch sử và quyền lịch sử trong luật biển dưới ánh sáng của vụ trọng tài Biển Đông)”, Ocean Development and International Law (Phát triển đại dương và luật quốc tế) 48.2 (2017), 181-207.
- Kurz, Johannes L. (sắp xuất bản). “Gauging the South China Sea: Route Books (genglubu) since 1974 (Ước định Biển Đông: Sách lộ trình (canh lộ bạ ) từ năm 1974)”, China Quarterly, https://doi.org/10.1017/S03057/41019000353.
- Lao Zude 劳祖德 (Lao Tổ Đức). “Đàm phán Trung-Nhật về đảo Đông Sa vào cuối triều đại nhà Thanh” 清末关于东沙岛的一次中日交涉 (Thanh mạt Quan vu Đông sa đảo đích nhất thứ Trung Nhật giao thiệp), Lịch sử dữ văn vật tư liệu 历史与文物资料3 (1979).
- Lassere, Frédéric. “Once forgotten reefs… historical images in the scramble for the South China Sea (Các rạn đá từng bị lãng quên;… hình ảnh lịch sử trong cuộc tranh giành Biển Đông)”, Cybergeo: European Journal of Geography (Tạp chí Địa lí Châu Âu) 92, ngày 22 tháng 4 năm 1999. https://journals.openedition.org/cybergeo/5782#tocfrom1n1, truy cập ngày 2 tháng 12, 2018.
- Li Baotian 李宝田 (Lí Bảo Điền). “Tứ thập niên Tây Sa hành” 四十年西沙行 (Hoàng Sa 40 năm). http://www.cb.com.cn/index/show/rw/cv/cv13444111221, ngày 24 tháng 6 năm 2016, truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
- Li Guoqiang 李国强 (Lí Quốc Cường). “Tân TQ hải cương sử nghiên cứu 60 niên” 新中国海疆史研究 60 年, TQ biên cương sử địa nghiên cứu 中国边疆史地研究 2009,3, 50-63.
- Li Jinming 李金明 (Lí Kim Minh). “TQ phát hiện và khai phá quần đảo Tây Sa và Nam Sa – Nhận xét về bài “Lịch sử bị bóp méo của Biển Đông: Biển Đông trước thế kỷ 20” của Lê Oa Đằng 中国是西沙,南沙群岛的最先发现者与开发者—评黎蜗藤《被扭曲的南海史: 20世纪前的南中国海》 Slovakia Yun, Vân Nam xã hội khoa học 云南社会科学 2018.4, 1-8, 186.
- Li Tana. “A View from the Sea: Perspectives on the Northern and Central Vietnamese Coast” (Một cái nhìn từ biển: Viễn cảnh bờ biển phía Bắc và miền Trung Việt Nam), Journal of Southeast Asian Studies (Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á ) 37.1 (2006), 83-102. [Li 2006a]
- Li Tana. “The Rise and Fall of the Jiaozhi Ocean Region (Thăng trầm của khu vực biển Giao Chỉ”, trong Schottenhammer và Ptak 2006, 125 139. [Li 2006b]
- Lin Jinzhi 林金枝 (Lâm Kim Chi). “Thạch đường trường sa tư liệu tập lục khảo thích” 石塘長沙資料輯錄考釋, Nanyang wenti 南洋问题 (Nam dương vấn đề) 6 (1979), 100-126.
- Lin Ronggui 林荣贵 (Lâm Vinh Quý). “Ngã quốc lịch đại chính phủ đối nam sa chư đảo đích quản hạt” 我国历代政府对南沙诸岛的管辖, TQ biên cương sử địa nghiên cứu đạo báo 中国边疆史地研究导报2 (1990), 4-10, 3.
- Lingwai daida 嶺外代答 (Lĩnh ngoại đại đáp:Thông tin về các vùng đất phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh), Zhou Qufei 周去非 (Chu Khứ Phi) biên soạn. Xem Dương Vũ Tuyền 1999.
- Liu Nanwei 劉南威 (Lưu Nam Uy). TQ Nam hải chư đảo địa danh luận cảo 中國南海諸島地名論稿. Bắc Kinh: Kexue chubanshe, 1996.
- Liu Yanhua 刘延华 (Lưu Diên Hoa). “Văn hiến đích lực lượng” 文献的力量. http://www.xinhuanet.com/world/2016-07/26/c_129179328.htm, truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
- Liu Yijie 刘义杰 (Lưu Nghĩa Kiệt). “Giải ‘khứ phạ Thất châu hồi phạ Côn lôn’”, “去怕七洲回怕昆仑” 解, Nanhai xuekan 南海学刊 (Nam hải học sơn) 2016,1, 28-37.
- Lu Linsong 卢林松 (Lư Lâm Tùng). “Điếu Ngư đảo tự cổ dĩ lai tựu thị TQ lãnh thổ” 钓鱼岛自古以来就是中国领土, Hanghai 航海 (Hàng hải)1991,4, 26-27.
- Manguin, Pierre-Yves. “The Southeast Asian Ship: An Historical Approach” (Tàu thuyền Đông Nam Á: Cách tiếp cận lịch sử), Journal of Southeast Asian Studies (Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á) 11.2 (1980), 266-276.
- Mengliang lu 梁 錄(Mộng lương lục: giấc mơ trên một bát kê),Wu Zimu 吳自牧 (Ngô Tự Mục) biên soạn. Hoc hải loại biên 學海類編 [In lại: Dương Châu: Jiangsu Guangling guji, 1994].
- Minh Hà Phạm, Charlotte. “European Navigation, Nautical Instructions and Charts of the Cochinchinese Coast (16th-19th Centuries) (Hàng hải châu Âu, hướng dẫn đi biển và hải đồ của bờ biển Nam Kì (thế kỉ 16 thế kỉ 19), Mousson 27 (2016), 101-126. https://journal.openedition.org/moussons/3544, truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2018.
- Müller, Shing, Thomas O. Höllmann và Gui Putao (chủ biên). Guangdong: Archaeology and Early Texts. Archäologie und frühe Texte (Zhou-Tang) (Quảng Đông: Khảo cổ học và sách vở xưa. (Chu-Đường). Wiesbaden: Harrassowitz, 2004.
- Nan Mingzi 南溟子(Chen Jiarong 陳佳榮). “Zhanghai kao ” 涨海考 (Trướng hải khảo). http://www.world10k.com/blog/pdf/281-290.pdf, truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2018.
- North Atlantic Treaty Organization (Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương). “Joint Press Statement Issued on the Occasion of the Meeting Between the NATO Secretary General, H.E. Mr Jens Stoltenberg and H.E Mr Shinzo Abe, Prime Minister of Japan” (Tuyên bố báo chí chung của ban hành nhân dịp Tổng thư ký NATO, Ngài Jens Stoltenberg gặp Ngài Shinzo Abe, Thủ tướng Nhật Bản, https://www.nato.int/cps/en/natohq/opinions_148029.htm?selectedLocale=en, ngày 31 tháng 10 năm 2017, truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2019.
- People’s Republic of China (CHNDTH). “Note verbale (Công hàm)”. https://www.un.org/depts/los/clcs_new/submissions_files/vnm37_09/chn_2009re_vnm.pdf, truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2019.
- Permanent Court of Arbitration. “Press Release: The South China Sea Arbitration (The Republic of the Philippines v. The People’s Republic of China), (Tòa Trọng tài Thường trực. Thông cáo báo chí: Trọng tài Biển Đông (Cộng hòa Philippines v. CHNDTH)) ngày 12 tháng 7 năm 2016. https://pca-cpa.org/en/news/pca-press-release-the-south-china-sea-arbitration-the-republic-of-the-philippines-v-the-peoplesrepublic-of-china, truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2019.
- Ptak, Roderich. “Notes on the Word shanhu and Chinese Coral Imports from Maritime Asia ca. 1250-1600”, (Ghi chú về từ shanhu (san hô) và Việc TQ nhập khẩu San hô từ vùng biển Châu Á khoảng 1250-1600, Archipel 39 (1990), 65-80.
- Ptak, Roderich. 1997. “Die Paracel- und die Spratly-Inseln in Sung-, Yüan und frühen Ming-Texten: Ein maritimes Grenzgebiet?” (Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa trong sách sử thời Tống, Nguyên và đầu thời Minh: Khu vực biên giới biển?), trong: Dabringhaus và Ptak 1997, 159-181.
- Ptak, Roderich. 2004. “Zhanghai. Raum und Konzept: Von den Anfängen bis zur Tang-Zeit”(Trướng hải. Khoảng biển và ý niệm: Từ đầu cho tới thời Đường), trong: Müller, Höllmann, và Gui 2004, 241-253.
- Ptak, Roderich. “Review of Chen Jiarong 陳佳榮, Waiguo zhuan 外國傳 (Điểm sách của Trần Giai Vinh 陳佳榮, Ngoại quốc truyện 外國傳)”, Archipel 74 (2007): 235- 237.
- Qi Xin 齊辛 (Tề Tân). “Nam hải chư đảo đích chủ quyền dữ Tây Sa quần đảo chi chiến” 南海諸島的主權與西沙群島之戰 (Chủ quyền các đảo ở Biển Đông và trận chiến quần đảo Hoàng Sa), Qishi niandai 七十年代 (Thất thập niên đại) 50 (1974), 38-42.
- Renmin Ribao 人民日报 (Nhân dân nhật báo)( eds.). “在毛主席关于 “古为今用” 方针的指引下 我国西沙群岛文物考察取得可喜成绩发掘出数以千计的文物资料无可争辩地证明西沙同南沙中沙东沙一样 自古就是我国的神圣领土 我国人民是这里的真正主人” (Theo phương châm “cổ vi kim dụng (lấy xưa dùng nay)” của chủ tịch Mao Trạch Đông, TQ đã tiến hành khảo sát di tích quần đảo Tây Sa đã thu được hàng ngàn hiện vật văn hoá giúp chứng minh quần đảo Tây Sa cùng quần đảo Nam Sa, Trung Sa và Đông Sa là lãnh thổ thiêng liêng của TQ từ xa xưa, nhân dân TQ là chủ nhân chân chính ở đó không thể tranh cãi)”, ngày 31 tháng 8 năm 1976, 4.
- Republic of China (Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan)). “Position Paper of ROC on South China Sea” (Công thư về lập trường của THDQ về Biển Đông, ngày 21 tháng 3 năm 2016. https://www.taiwanembassy.org/au_en/post/7206.html, truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2018.
- Royal Navy (Hải quân Hoàng gia Anh). “HMS Argyll’s US Navy Link-up in South China Sea”(Liên kết Hải quân Hoa Kì với HMS Argyll ở Biển Đông). https://www.royalnavy.mod.uk/news-and-latest-activity/news/2019/january/16/190116-argylls-us-link-up-south-chinasea, truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2019.
- Schpricemer, Angela và Roderich Ptak (chủ biên ). The Perception of Maritime Space in Traditional Chinese Sources (Nhận thức về không gian biển trong các nguồn truyền thống của TQ). Wiesbaden: Harrassowitz, 2006.
- Shao Xunzheng 邵循正 (Thiệu Tuần Chính). “Tây Sa quần đảo thị TQ đích lãnh thổ” 西沙群島是中國的領土, Nhân dân nhật báo 人民日报 ngày 08 tháng 7 1956, 4.
- Shen, Jianming. “International Law Rules and Historical Evidences Supporting China’s Title to the South China Sea Islands” (Luật lệ quốc tế và các bằng chứng lịch sử của Vương quốc hậu thuẫn quyền sở hữu của TQ đối với các đảo ở Biển Đông), Hastings International and Comparative Law Review (Tạp chí luật so sánh quốc tế và so sánh Hastings) 21.1 (1997), 1- 75.
- Shen, Jianming. “China’s Sovereignty over the South China Sea Islands: A Historical Perspective” (Chủ quyền của TQ đối với các đảo ở Biển Đông: Quan điểm lịch sử), Chinese Journal of International Law (Tạp chí Luật quốc tế TQ) 1.1 (2002), 94-157.
- Shi Dizu 史棣祖 (Sử lệ tổ). “Nam hải chư đảo tự cổ tựu thị ngã quốc lãnh thổ” 南海诸岛自古就是我国领土, Nhân dân nhật báo 25/11/1975, 2.
- Shi Dizu. “Tây Sa quần đảo khảo sát kí” 西沙群岛考察记. http://www.igsnrr.cas.cn/sq70/hyhg/kyjl/201005/t20100526_2855986.html, ngày 26 tháng 5 năm 2010, truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
- Shih, Ti-tsu [= Sử lệ tổ]. “South China Sea Islands, Chinese Territory since Ancient Times” (Các đảo Nam hải, Lãnh thổ TQ từ thời xa xưa), Peking Review (Tạp chí Bắc Kinh) 50 (1975), 10-15.
- Songshi 宋史(Tống sử), Toghto (Thoát Thoát 脫脫) và các cộng sự biên soạn. Bắc Kinh: Trung Hoa, 1977.
- Spangler, Jonathan, Karalekas, Trưởng khoa và Lopes de Souza, Moise (chủ biên ). Enterprises, Localities, People, and Policy in the South China Sea (Các doanh nghiệp, địa phương, nhân dân và chính sách ở Biển Đông). Luân Đôn: Palgrave McMillan, 2018.
- Standifer, Cid. “A Brief History of U.S. Freedom of Navigation Operations in the South China Sea” (Lịch sử tóm tắt về hoạt động tự do hàng hải của Hoa Kì tại Biển Đông). https://news.usni.org/2017/05/29/brief-history-us-freedom-navulation-operations-southchina-sea, truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2019.
- Storey, Ian. “US Navy Conducts First South China Sea FONOP of 2019 (Hải quân Hoa Kì tiến hành FONOP Biển Đông đầu tiên của năm 2019)”. https://www.iseas.edu.sg/medias/commentaries/item/8881-us-navy-conducts-first-south-china-sea-fonop-of-2019-by-iamstorey, truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2019.
- Taiping yulan 太平御覽(Thái Bình ngự lãm), Lí Phưởng 李昉 và các cộng sự biên soạn. Bắc Kinh: Trung Hoa, 1985.
- Tan Qixiang 谭其骧 (Đàm Kì Tương). “Thất Châu dương khảo ” 七州洋考, TQ sử nghiên cứu động thái 中国史研究动态.6 1979.6.
- Taylor, Keith W. (chủ biên ). Voices from the Second Republic of South Vietnam (1967-1975).(Tiếng nói từ Việt Nam Cộng hòa thứ hai (1967-1975)). Ithaca, NY: Chương trình Cornell Đông Nam Á, 2014.
- T’ien Ju-k’ang. “The First Printed Chinese Rutter: Duhai fangcheng 渡海方程 (Dương phòng tập yếu: Sổ ghi chép đi biển in đầu tiên: Độ hải phương trình)”, Thông Báo 68.1-3 (1982), 79-90.
- Thomaz, Luis Filipe F.R. “The Image of the Archipelago in Portuguese Cartography of the 16th and Early 17th Centuries”,(Hình ảnh quần đảo trong Bản đồ học Bồ Đào Nha thế kỉ 16 và đầu thế kỉ 17), Archipel 49 (1995), 79-124.
- Bộ Ngoại giao Hoa Ky. Limits in the Sea 143 China: Maritime Claims in the South China Sea (Giới hạn trên biển 143 TQ: Yêu sách biển ở Biển Đông). Washington: Bộ Ngoại giao, 2014.
- Vutz, Cornelia. “The East China Sea Territorial Dispute: Senkaku, Diaoyu, or Tiaoyutai Islands?” (Tranh chấp lãnh thổ Biển Hoa Đông: quần đảo Senkaku, Điếu Ngư, hay Điếu Ngư Đài? ”, Library Briefing: Library of the European Parliament (Báo cáo vắn tắt của Thư viện: Thư viện Nghị viện châu Âu), ngày 29 tháng 7 năm 2013.
- Wan Ming 万明 (Vạn Minh). 明代历史叙事中 的中琉关系与钓鱼岛 (Minh đại lịch sử tự sự trung đích Trung-Lưu quan hệ dữ Điếu ngư đảo:Quan hệ TQ-Lưu Cầu và quần đảo Điếu Ngư trong chuyện sử thời Minh) 历史的 琉, Lishi yanjiu 历史研究 (Nghiên cứu lịch sử) 2016.3, 77-96, 189-190.
- Wang Chunyu 王春煜 (Vương Xuân Dục). Hàn Chấn Hoa – học giả kiệt xuất nghiên cứu sử địa Nam hải. 韩振华—南海史地研究杰出学者, Tuần sơn đặc cảo 海南周刊特稿 ngày 5 tháng 12 năm 2011, B6.
- Wang Hẹngie 王春煜 (Vương Hằng Kiệt). “Tây Sa quần đảo đích khảo cổ điều tra” 西沙群岛的考古调查 (Điều tra khảo cổ quần đảo Hoàng Sa), Kaogu 考古 (Khảo cổ) 1992,9, 769-777.
- Wang Hẹngie. “Nam Sa quần đảo khảo cứu điều tra” 南沙群岛考古调查, Kaogu 考古 (Khảo cổ) 1997,9, 64-70.
- Wujing zongyao 武經總要 (Vũ kinh tổng yếu: Những điều cốt yếu về quân sự), Zeng Gongliang曾公亮 (Tăng Công Lượng) soạn. [In lại:] Bắc Kinh: Jiefangjun chubanshe, 1988.
- Xiamen daxue Nanyang yanjiusuo nanshizu 大学 南洋 研究所 组 (Tổ Nam sử Sở nghiên cứu Đại học Hạ môn). “Các đảo ở Biển Đông luôn là lãnh thổ của Trung Quốc” 南海诸岛历来就是中国的领土, Nanyang wenti 南洋问题 (Nam dương vấn đề) 1975,5, 1-35.
- Xiang Da 向達 (Hướng Đạt) (chủ biên ). Tây dương phiên quốc chí 西洋番國志 (Công báo của các quốc gia phụ lưu phía tây); Trịnh Hoà hàng hải đồ 鄭 和 航海 圖 (Bản đồ hàng hải của Trịnh Hòa); Lưỡng chủng hải đạo châm kinh 兩種海道針經 (Hai sách hưóng dẫn đi bíển). Bắc Kinh: Trung Hoa, 2000.
- Xie Fang 謝方 (Tạ Phương) ( ed.). Tây dương triều cống điển lucj giáo chú 西洋朝貢典錄校注; Đông Tây dương khảo [giáo chú] 東西洋考[校注]. Zhongwai jiaotong shiji congkan (Trung ngoại giao thông sử tịch tùng sơn), 5. Bắc Kinh: Zhonghua, 2000.
- Xin Tang shu 新唐書 (Tân Đường thư), Ouyang Xiu 歐陽修 (Âu Dương Tu). Bắc Kinh: Trung Hoa, 1991.
- Xu Yongjie 许永杰 (Hứa Vĩnh Kiệt) và Fan Yiran 范伊然 (Phạm Y Nhiên). “TQ Nam hải chư đảo khảo cổ thuật yếu” 中国南海诸岛考古述要, Jianghan kaogu 江汉考古2012 (Giang Hán khảo cổ),1, 40-47.
- Yang Bowen 楊博文 (Dương Bác Văn) (chủ biên ). Chư phiên chí giáo thích 諸蕃志校釋; Chức phương ngoại kỉ giáo thích 職方外紀校釋. Zhongwai jiaotong shiji congkan (Trung ngoại giao thông sử tịch tùng sơn), 12. Bắc Kinh: Zhonghua, 2000.
- Yang Wuquan 楊武泉 (Dương Vũ Tuyền) (chủ biên ). Lĩnh ngoại đại đáp giáo chú 嶺外代答校. Bắc Kinh: Trung Hoa, 1999.
- Yangfong jiyao 洋防輯要 (Dương phòng tập yếuTóm tắt về phòng thủ hàng hải), do Yan Ruyi 嚴如熠 (Nghiêm Như Tập) soạn. Đài Bắc: Taiwan xuesheng, 1975.
- Ye Hanming [Yip Hòn Ming] 葉漢明và Wu Ruiqing [Ng Sui / Soei Hing] 吳瑞卿. “tùng lịch sử tái kí cập dư đồ khán Nam hải chư đảo đích chủ quyền quy chúc vấn đề” 從歷史載記及輿圖看南海諸島的主權歸屬問題, Mingbao yuekan 明报月刊101.5 (1974), 9-20.
- Yinghuan kaolüe 瀛環考略 (Doanh hoàn khảo lược: Mô tả ngắn gọn về mạch đại dương). Zhongguo shixue congshu xubian, 35. Đài Bắc: Đài Loan xuesheng, 1984.
- Yinghuan zhilue 瀛寰志略 (Doanh hoàn chí lược: Mô tả ngắn gọn về mạch đại dương), do Xu Jiyu 徐繼畬 (Từ Kế Dư) soạn. https://zh.wikisource.org/wiki/瀛寰志略/亞細亞南洋濱海各國, truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2018.
- Yiwu zhi 異物 志(Dị vật chí: Ghi chép những điều kì lạ), do Yang Fu 楊孚 (Dương Phu) soạn. Zeng Zhao 曾釗 (Tăng Chiêu) hiệu đính. Bắc Kinh: Trung Hoa, 1985.
- Yuan shi 元史 (Nguyên sử ), do Song Lian 宋濂 (Tống Liêm) và cộng sự biên soạn. Bắc Kinh: Trung Hoa, 2005.
- Yudi jisheng 輿地紀勝 (Dư địa kỉ thắng: Hồ sơ về những nơi nổi tiếng), do Wang Xiangzhi 王象之 (Vương Tượng Chi ) soạn. Bắc Kinh: Trung Hoa, 2003.
- Zhang Hongzeng 张鸿增 (Trương Hồng Tăng). “Tùng quốc tế pháp khánTQ đối Tây Sa quần đảo hòa Nam Sa quần đảo đích chủ quyền” 从国际法看中国对西沙群岛和南沙群岛的主权 (Chủ quyền của TQ đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhìn từ góc độ luật pháp quốc tế,), Hongqi 红旗 (Hồng Kì) 1980.4, 70-78.
- Zhen Binghua 甄炳華 (Chấn Bỉnh Hoa). Hải thượng ti lộ— Nam hải cổ quốc tầm tung mê hàng 海上絲路—南海古國尋蹤迷航 (Con đường tơ lụa trên biển: tìm tung tích các tàu bị đắm các nước cổ ở Biển Đông). Đài Bắc: Taiwan shangwu, 2014.
- Zheng Hailin 郑海麟 (Trịnh Hải Lân). “Nghiên cứu văn bản về quần đảo Điếu Ngư và các đảo liên quan sử TQ” 中国史籍中的钓鱼岛及其相关岛屿考, Học báo Thái Bình Dương 太平洋学报2014,9, 66-83.
- Zheng Ziyue 鄭資約 (Trịnh Tư Ước). Nam hải chư đảo địa lí chí lược 南海 諸島地理誌略. Thượng Hải: Shangwu yinshuguan, 1947.
- Zhengde Qiongtai zhi 正德瓊臺志 (Trịnh Đức Quỳnh Đài chí), do Tang Chu 唐冑 (Đường Trụ). Thượng Hải: Thượng Hải guji, 1964.
- Zheng He hanghai tu 鄭 和 航海 圖( Trịnh Hòa hàng hải đồ). Xem Xiang Da (Hướng Đạt) 2000.
- Zhong Yan 钟严. “Lun Diaoyudao zhuquan guishu” 论钓鱼岛主权归属, Nhân dân nhật báo 人民日报18 tháng 10 năm 1996, 8.
- Zhongguo gujin diming dacidian 中國 辭典(Từ điển tên địa danh trong quá khứ và hiện tại ở TQ), do Zang Lihe 臧勵龢 (Tang Lệ Hoà) và các cộng sự biên soạn. Thượng Hải: Thượng Hải, 1931.
- Zhongguo kexueyuan dili yanjiu suo lishi dili zu 中国科学院地理研究所历史地理组 (Tổ địa lí lịch sử Sở Nghiên cứu địa lí Viện khoa học TQ). “Ghi chép trong sách cổ của TQ về các loài động vật ở các đảo Biển Đông,” 我国古籍有关南海诸岛动物的记载, Học báo động vật 动物学报22.1 (1976), 59-65.
- Zhongguo Nanhai kexueyuan Haiyang yanjiusuo shengwushi ziyuanzu 中国科学院南海海洋研究所生物室资源组 (Tổ tài nguyên Phòng sinh vật Sở Nghiên cứu hải dương Viện Khoa học TQ). “Quan sát sơ bộ về thói quen sinh sản của rùa ở quần đảo Tây Sa” 西沙群岛海龟生殖习性的初步观察, tạp chí Động vật học 动物学杂志1975,4, 34-35.
- Zhonghua Minguo 中華民國 (THDQ). “Thảo luận chính sách Nam hải của THDQ” 中華民國南海政策說帖. http://multilingual.mofa.gov.tw/web/web_UTF-8/South/中華民國南海政策說帖.pdf, ngày 21 tháng 3 năm 2016, truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2018.
- Zhonghua Renmin gongheguo waijiaobu 中华人民共和国外交部 (Bộ ngoại giao CHNDTH). “Tuyên bố của CHNDTH ngày 20 tháng 1 năm 1974” 中华人民共和国声明一九七四年一月 二十日, Nhân dân nhật báo 人民日报 21 tháng 1 năm 1974, 1.
- Zhonghua Renmin gongheguo waijiaobu.“Chủ quyền của TQ đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa là không thể chối cãi” 中国对西沙群岛和南沙群岛的主权无可争辩, Nhân dân nhật báo 人民日报 ngày 31 tháng 1 năm 1980, 19-28.[Bộ ngoại giao CHNDTH 1980a]
- Zhonghua Renmin gongheguo waijiaobu.“TQ đối Tây Sa quần đảo hòa Nam Sa quần đảo đích chủ quyền vô khả tranh biện” 中国对西沙群岛和南沙群岛的主权无可争辩, Công báo Quốc vụ viện CHNDTH 中华人民共和国国务院公报1 (1980), 19-28. [Bộ ngoại giao CHNDTH 1980b].
- Zhonghua Renmin gongheguo waijiaobu.“Bản ghi nhớ về quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa” 关于西沙群岛南沙群岛问题的备忘录”, Công báo Quốc vụ viện CHNDTH 中华人民共和国国务院公报1 (1988), 396-398.
- Zhonghua Renmin gongheguo waijiaobu. “Cơ sở lịch sử về chủ quyền của TQ đối với quần đảo Nam Sa” 中国对南沙群岛拥有主权的历史依据. https://www.fmprc.gov.cn/web/ziliao_674904/tytj_674911/zcwj_674915/t10648.shtml, ngày 22 tháng 11 năm 2000, truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2018.
- Zhu Changdu 朱昌都 (Chu Xương Đô) và Chang Baolan 常宝兰 (Thường Bảo Lan). “Điếu Ngư đảo thị TQ đích cố hữu lĩnh thổ” 钓鱼岛是中国的固有领土, Nhân dân nhật báo 人民日报 30 tháng 8 năm 1996, 6.
- Zhou Zhaorui 周兆锐 (Chu Triệu Duệ). “Điếu Ngư đảo đẳng đảo tự vấn đề đích lai long khứ mạch” 钓鱼岛等岛屿问题的来龙去脉, học báo Đại học Sư phạm Vũ Hán 武汉师范大学学报 1978,8, 69-72.
- Zhu Qiwu 朱奇武 (Chu Kì Vũ). “Tùng quốc tế pháp khán Nam Sa quần đảo chủ quyền đích vấn đề (thượng) 从国际法看南沙群岛主权的问题 (上) (Chủ quyền quần đảo Trường Sa theo quan điểm luật quốc tế), Zhengfa luntan 政法论坛 (Chính pháp luận đàn) 1990,6, 7-12.
- Zhu Qiwu, “Tùng quốc tế pháp khán Nam Sa quần đảo chủ quyền đích vấn đề (hạ)” 从国际法看南沙群岛主权的问题 (上),,, Zhengfa luntan 1991.1, 7-15, 6.
- Zhufan zhi 諸蕃志(Chư phiên chí: Ghi chép về các nước phiên), do Zhao Rukuo 趙汝适 (Triệu Nhữ Quát) soạn. Xem Yang Bowen (Dương Bác Văn) 2000.
Dịch giả gửi BVN.
Được sự đồng ý của dịch giả, Ban biên tập BVN hiệu chú và bổ sung phần chữ Hán ghi chú trong bài, cũng như chuyển đổi các chú thích chân trang (foodnote) thành các chú thích với dấu ngoặc móc [], và đánh chấm vuông đầu dòng các tài liệu tham khảo khi xuất bản trên web.