Thư ngỏ gửi vị Tiến sĩ Đại học Yale

Cô Đỗ Ngọc Bích được dịp dội một gáo nước lạnh vào ngọn lửa nhiệt huyết đang bùng lên trong tâm can hàng trăm nghìn người Việt, có cơ là ngọn lửa thiêng làm liền lại những gì đã rạch đôi cộng đồng trong nước với cộng đồng nước ngoài từ bao nhiêu năm nay. Cô đánh thẳng vào động cơ của cộng đồng nước ngoài mà không thương tiếc: “Dân Việt Nam ở hải ngoại, đặc biệt là những người thuộc chính quyền Việt Nam cộng hòa phải tị nạn sau biến cố tháng 4/1975 ‘ghét’ nhà nước cộng sản Việt Nam và nhà nước cộng sản Trung Quốc từ xưa thì rõ rồi.

Trung Quốc đã hỗ trợ Bắc Việt Nam rất lớn trong cuộc chiến tranh Việt Nam, ‘đánh bại’ người Mỹ và ‘lật đổ’ chính thể Việt Nam cộng hòa.

Vì vậy không rõ là họ bài xích Việt Nam và Trung Quốc là do sự thù hằn nội chiến đó, hay là thực sự muốn bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, đau xót uất hận khi thấy Việt Nam “mất đất”?”. Ghê chưa! Một đòn đả “trúng tim đen” còn gì.

Còn cộng đồng quốc nội thì sao? Cô khen: “Song những người dân có tri thức ở trong nước, những blogger gần đây gặp vấn đề về chính trị mà phần đông là những thanh niên đầy tâm huyết và lý tưởng thì có lẽ khác.

Họ có vẻ như không bị ảnh hưởng bởi tư tưởng chống Cộng, chỉ đơn giản là yêu nước thôi. Thế mới có chuyện đáng bàn”.

Ai nghe mà chẳng thấy bùi tai. Nhưng chưa kịp mừng thì cô đã ra ngay một đòn thứ hai, không kém hiểm hóc dành cho người trong nước: “Những thanh niên này hầu hết đều lớn lên vào những năm 1980, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc có điều khiển của nhà nước Việt Nam sau cuộc chiến tranh biên giới 1979, bài xích Trung Quốc, tố cáo Trung Quốc ‘hơi nhiều‘”. Thì ra họ chống Trung Quốc chỉ vì bị “chủ nghĩa dân tộc có điều khiển” của Nhà nước Việt Nam từ sau 1979 kích thích mà hăng máu lên đấy thôi chứ nào phải do lòng yêu nước vốn có từ trong huyết quản.

Có lẽ trong số những giọng điệu tuyên truyền trước nay nhằm bôi bác chủ nghĩa yêu nước của người Việt và chia rẽ giữa người Việt với nhau, không ai trình bày được thâm thúy như cô Đỗ Ngọc Bích. Mảnh bằng Tiến sĩ mà người ta cấp cho cô đáng giá lắm thay.

Tuy nhiên, nếu cô chỉ dừng ở đó thì hay. Khốn nỗi cô lại đi quá trớn, đến nỗi lộ hết cả chân tướng của mình. Cô nói: “Một thực tế là lịch sử Việt Nam suốt hơn 2.000 năm từ thời Triệu Đà đến thời Nguyễn, cho dù thỉnh thoảng có tuyên bố “Sông núi nước Nam, Vua Nam ở”, thì Việt Nam vẫn luôn là một phần của Trung Quốc.

Người dân Việt Nam bắt nguồn từ Trung Quốc, Vua của Việt Nam cũng khởi tổ từ người Trung Quốc, coi vua Trung Quốc như anh như cha… từ Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, hay Lý Công Uẩn, rồi các gia tộc họ Trần, Lê, Nguyễn, v.v…”.

Ôi thôi thôi, thế thì còn gì gọi là thâm nho nữa. “Việt Nam là một phần của Trung Quốc” trong 2000 năm qua ư? Hay là ngược lại, trong 2000 năm ấy, các vị Hoàng đế Trung Quốc đã luôn luôn dùng vũ lực để cố “ép duyên” nàng mỹ nữ An Nam về với mình mà cuối cùng vẫn ép không xuôi nên đến thế kỷ X thì đành phải để An Nam “ly dị”; “ly dị” rồi vẫn tiếc, nên hễ có cơ hội lại đem quân sang mong ép nữa, nhưng nàng mỹ nữ An Nam giờ đây “múa roi đi quyền” đã quá thông thạo đâu phải dễ ép, nên lần nào các ngài sang cũng bị tẩn cho nhừ tử lại phải tiu nghỉu trở về? Vậy thì Việt Nam và Trung Quốc vẫn là hai cơ thể sinh mệnh khác nhau chứ sao lại từ một mà tách ra thành hai được. Nói lấp lửng “một phần” như cô là nói lấy được đấy.

“Người dân Việt Nam bắt nguồn từ Trung Quốc” ư? Quả có những họ tộc từ Trung Quốc sang nước ta lập nghiệp thật đấy, song ai mà lại đi tìm nguồn gốc một dân tộc theo cái kiểu xem xét sự di trú của một vài dòng họ như vậy cơ chứ. Phải nói thật những người Trung Quốc xưa kia do nước Tàu loạn lạc bỏ sang đất Việt làm ăn sinh sống thì chỉ cần sang đây kết hôn với người Việt, đến đời thứ ba đã trở thành Việt 100% và chống Tàu còn hăng hơn người Việt thuần chủng nữa kia.

Còn về quan hệ giữa nước nhỏ và nước lớn thì xưng hô bề ngoài là thiên tử với chư hầu đâu có mất mát gì. Cứ thử xem, xưng hô thế nhưng trong lịch sử Việt Nam 1000 năm qua đã có ông vua nào phải sang chầu “vua anh vua cha” Trung Quốc đâu nhỉ? Cái đầu của các quốc vương An Nam rắn lắm. Rõ ràng dù có khởi tổ ở phương Bắc đi nữa, các hoàng tộc này đã không bao giờ thèm cất công đi tìm lại nguồn gốc dòng họ mà chỉ biết mình là dòng dõi Việt Nam. Cố ý moi móc gốc gác của họ để làm cái gì đây?

Cô Tiến sĩ Đỗ Ngọc Bích quả chưa cao tay, giống như một Trình Giảo Kim giở đến búa thứ ba là hết phép. Chúng tôi tin chắc sẽ có nhiều bài viết hầu chuyện với cô để chỉ cho cô thấy có lẽ cô còn phải tu nghiệp ở đâu đó thêm một bằng Tiến sĩ nữa thì mới khỏi rơi vào tình trạng đầu voi đuôi chuột rất gượng như cô lập luận. Mở đầu, xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc bài viết của nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc.

Nguyễn Huệ Chi

Tiến sĩ Đỗ Ngọc Bích

Tiến sĩ Đỗ Ngọc Bích

Nhân đọc bài Một cách nhìn khác về tinh thần dân tộccủa Tiến sĩ Đỗ Ngọc Bích đăng trên BBC Việt ngữ ngày thứ bảy, 17 tháng 4 năm 2010, tôi có đôi điều muốn thưa chuyện cùng Tiến sĩ Đỗ Ngọc Bích.

Trước hết, đọc những dòng sau đây của Đỗ Ngọc Bích:

1. “Những thanh niên này hầu hết đều lớn lên vào những năm 1980, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc có điều khiển của nhà nước Việt Nam sau cuộc chiến tranh biên giới 1979, bài xích Trung Quốc, tố cáo Trung Quốc ‘hơi nhiều’”.

Thưa Tiến sĩ, trong những năm cuối 1970 và đầu 1980 Tiến sĩ đang ở đâu? Đang ở trời Tây trong giảng đường đại học hay nép mình trong góc phố an bình nào đó ở Việt Nam trong lúc hàng ngàn người dân Việt đã ngã xuống chống giặc để cho cô có mảnh bằng học vị hôm nay. “Chủ nghĩa dân tộc có điều khiển” là gì thưa Tiến sĩ? Sao lời lẽ của Tiến sĩ tương tự như bộ máy tuyên truyền chụp mũ trên Mạng Hoàn Cầu đến thế!

2. “Họ không nhận ra được rằng Việt Nam thực ra cũng là một phần trong da thịt của Trung Quốc, chia sẻ nguồn gốc văn hóa và tư tưởng, và nhận được khá nhiều ân huệ từ Trung Quốc trong suốt hơn 20 năm chiến tranh (1950-1975)”.

Cô Tiến sĩ ơi, tôi tin rằng cho dù cô được học và lớn lên trên đất Mỹ, nhưng giáo trình nào? tài liệu nào của Mỹ đã dạy cho cô “Việt Nam thực ra cũng là một phần trong da thịt của Trung Quốc”? Sao Tiến sĩ không nói luôn là “Việt Nam vốn bị Trung Quốc đô hộ tự nghìn xưa, là phần đuôi của Đại Hán?” Còn cái mà cô gọi là “ân huệ” thì phải chăng cô muốn cùng Giáo sư Lê Xuân Khoa thảo luận lại “Ba mươi năm gọi tên gì cho cuộc chiến?”.

3. Thêm nữa, “Cho dù Trung Quốc giúp Việt Nam là vì tính toán chính trị của họ, được giúp đỡ để chiến thắng cũng là điều tốt mà ‘mình nên nhớ’. Câu “yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét cả tông ti họ hàng” trong tình huống này có lẽ đúng”.

Tiến sĩ Đỗ Ngọc Bích muốn nhớ, thì nhân đây tôi giúp cho cô nhớ:

“Theo dõi việc đưa tin về Hội nghị Giơ-ne-vơ từ ngày đầu đến ngày cuối, tôi – và các nhà báo khác có quan hệ chặt chẽ với các đoàn xã hội chủ nghĩa – không nghi ngờ gì về việc đoàn Trung Quốc không ủng hộ mạnh mẽ đoàn Việt Nam. Nhiều năm sau Hội nghị, các nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn còn nói một cách trung thành: “các kết quả đã đạt được qua thảo luận và thỏa thuận chung”. Điều đó đúng sự thật theo nghĩa đen, nhưng không đúng sự thật thực sự, dù chỉ là một nửa.

Khi hội nghị thảo luận đến vấn đề quy định một giới tuyến để quân đội Pháp rút về phía Nam và quân đội Việt minh rút về phía Bắc, ông Phạm Văn Đồng đề nghị một đường ranh giới dọc theo vĩ tuyến 13. Trong tình hình thảm hại của lực lượng Pháp sau thất bại Điện Biên Phủ, và số còn lại trong những lực lượng tinh nhuệ của họ thì đang bị bao vây ở đồng bằng Sông Hồng và các nơi khác ở miền Bắc, đó không phải là một đề nghị không phải chăng. Đề nghị đó sẽ cho Việt minh có 100 km biên giới chung với Cam-pu-chia và sẽ bù đắp lại việc họ không giành được một vùng tập kết cho các lực lượng Khơ-me I-xa-rắc. Nhưng, trước “chủ nghĩa thực tế” và “chủ nghĩa thực dụng” đó, từng bước ông Phạm Văn Đồng đã buộc phải lùi đường ranh giới của mình qua vĩ tuyến 14 (như vậy cũng vẫn cho Việt minh có một biên giới nhỏ với Cam-pu-chia), rồi qua vĩ tuyến 15 tới vĩ tuyến 16, tại đó ông kiên quyết giữ lập trường.

Đã hai lần trong lịch sử Việt Nam, vĩ tuyến 16 từng là ranh giới phân chia tạm thời. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, khi quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc kéo vào phía Bắc và quân đội Anh vào phía Nam (bề ngoài là để vây quét tàn dư của quân đội chiếm đóng Nhật và đưa chúng về Nhật), đường ranh giới giữa hai lực lượng này chạy dọc theo vĩ tuyến 16 và qua ngoại ô phía Nam của Đà Nẵng. Khi đất nước bị chia cắt giữa nhà Trịnh và nhà Nguyễn vào thế kỷ thứ XVII, đường ranh giới cũng chạy dọc vĩ tuyến 16 trở thành giới tuyến lô-gích – nếu cần phải có một giới tuyến.

Những người Pháp đòi một đường ranh giới dọc vĩ tuyến 17. Sau một cuộc gặp riêng giữa Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng mới của Pháp, Pi-e Măng-đét Phrăng và Chu Ân Lai, Chu ủng hộ lập trường của Pháp…

Chu Ân Lai nói rõ với người Pháp rằng Trung Quốc đến Giơ-ne-vơ trước hết là để bảo vệ lợi ích của chính mình chứ không phải lợi ích của các lực lượng cách mạng Đông Dương. Điều này trở nên sáng tỏ một cách tàn nhẫn trong một cuốn sách về Hội nghị Giơ-ne-vơ, dựa trên những tài liệu về Hội nghị chưa hề được công bố, của nhà viết sử và chuyên gia về Châu Á người Pháp Phrăng-xoa Gioay-ô. Tác giả kể lại một cuộc họp giữa Chu Ân Lai và An-tô-ni I-đơn tại Giơ-ne-vơ một ngày trước khi Bộ Ngoại giao Anh công bố quan hệ ngoại giao giữa hai nước sẽ được nâng lên hàng đại sứ.

“Trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc đã nói riêng với I-đơn là ông ta nghĩ rằng có thể ‘thuyết phục được Việt minh rút khỏi Lào và Cam-pu-chia’. Qua đó, Trung Quốc đã đi một bước rất dài theo luận điểm của người Cam-pu-chia, người Lào, người Anh và người Pháp. Điều đó bao hàm việc thừa nhận rằng Việt minh đúng là kẻ xâm lược ở hai nước đó, ngược lại với luận điểm lâu nay của Việt minh – đó cũng là coi các vấn đề Lào và Cam-pu-chia không giống như vấn đề Việt Nam. Ngoài ra, Chu Ân Lai còn nói sẵn sàng công nhận tính chất hợp pháp của các Chính phủ Vương quốc Lào và Cam-pu-chia ngay khi nào ông ta được bảo đảm rằng không một căn cứ quân sự nào của Mỹ được xây dựng ở hai nước này”.

Trung Quốc thực sự đã quyết định quay lưng lại các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Lào và Cam-pu-chia để cầu xin ân huệ của các Chính phủ Anh và Pháp. “Nó cho phép trang bị quân đội chính phủ hiện nay đang đấu tranh chống du kích Pa-thét Lào và Khơ-me I-xa-rắc, và trong tương lai có thể đẩy lùi mọi hoạt động mới của Việt minh ở bên ngoài biên giới Việt Nam”…

Bài phát biểu ngắn của ông Đồng tại phiên họp bế mạc phản ánh sự cay đắng của ông khi phải chấp nhận những quyết định do sự áp đặt của người khác, bè bạn cũng như đối thủ. Các nhà báo không được dự phiên họp này (cũng như mọi phiên khác), nhưng Gioay-ô đã tóm tắt những gì đã xảy ra:

“Ông Phạm Văn Đồng chỉ có một câu cám ơn hai đồng Chủ tịch, chứ không nói một lời nào biết ơn đối với Trung Quốc. Liệu có thể giải thích sự im lặng này một cách nào khác hơn là dấu hiệu về sự bất bình của Việt minh đối với đồng minh của họ, những người tuy là nguồn ủng hộ vững chắc trong quá trình thương lượng, nhưng vẫn không ngần ngại tìm cách hạn chế những yêu cầu của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mỗi khi lợi ích dân tộc của chính họ đòi hỏi?”.

Tối ngày 22 tháng 7, ông Phạm Văn Đồng và các thành viên khác của đoàn đại biểu Việt Nam dân chủ cộng hòa đến dự một cuộc chiêu đãi của Chu Ân Lai để “chúc mừng thắng lợi của Hội nghị”. Họ chờ đợi một cuộc “chúc mừng giữa những người đồng chí”. Họ rất ngạc nhiên khi thấy đoàn đại biểu Liên Xô đã không được mời, trong khi các đoàn đại biểu của “Hoàng đế” Bảo Đại, Vương quốc Lào và Cam-pu-chia lại có mặt. Chu Ân Lai trước hết nâng cốc chúc mừng Hoàng đế Bảo Đại rồi đến Vua Lào và Vua Cam-pu-chia. Người phụ tá cao cấp của ông Phạm Văn Đồng (mà tôi đã trích dẫn trước đây) nói với tôi:

“Chúng tôi hầu như không thể tin ở mắt và tai mình nữa. Về sau, chúng tôi thấy vấn đề rõ hơn. Trung Quốc muốn các nước Đông Dương nằm trong túi mình, và hy vọng rằng ba Vương quốc ở đây sẽ được duy trì như những nước triều cống như kiểu Thiên hoàng trị vì đế quốc Trung Hoa với những quốc gia phiên thuộc! Trung Quốc không thể coi thường hơn nữa nội dung xã hội của các quốc gia ấy cũng như số phận của các lực lượng cách mạng ở đó. Nhìn lại những gì xảy ra sau này với Khơ-me đỏ ở Cam-pu-chia và việc Trung Quốc xâm lược Việt Nam rõ ràng đã được khởi động bởi thái độ của Trung Quốc tại Hội nghị Giơ-ne-vơ và đặc biệt là cuộc chiêu đãi cuối cùng này”.

Chu Ân Lai đã bố trí để tại cuộc chiêu đãi các Trưởng đoàn Cam-pu-chia và Lào, Tép Phan và Phủi Xa-na-ni-côn, ngồi cùng một bàn với vài phụ tá cao cấp của Chu Ân Lai. Tại bàn do Chu Ân Lai chủ trì, Ngô Đình Luyện (em Ngô Đình Diệm, người mới được CIA đưa lên cầm quyền ở Sài Gòn) được xếp ngồi giữa Phạm Văn Đồng và Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngô Đình Luyện và Tạ Quang Bửu đã từng cùng học tại Pháp và Chu Ân Lai tìm hết cách làm cho hai người gợi lại những kỷ niệm thời thanh niên. Có lúc, Chu gợi ý Ngô Đình Luyện sang thăm Bắc Kinh. Khi Luyện hỏi sang đó dưới danh nghĩa nào, Chu Ân Lai trả lời: “Tại sao các ngài không đặt một công sứ quán ở Bắc Kinh?”. Nhận thấy ông Phạm Văn Đồng giật nẩy người phản ứng, Chu Ân Lai lạnh lùng nói rằng việc ông Phạm Văn Đồng gần gũi với Trung Quốc hơn về tư tưởng không loại trừ việc Sài Gòn có đại diện ngoại giao tại Bắc Kinh. “Dù sao, hai ngài đều chẳng phải là người Việt Nam cả sao, và tất cả chúng ta đây chẳng phải là người Châu Á cả đó sao?”. Đây nữa lại là một viên thuốc đắng mà ông Phạm Văn Đồng phải nuốt tại Giơ-ne-vơ. Lý do khiến Chu Ân Lai ủng hộ việc đẩy lùi càng lâu càng tốt cuộc tổng tuyển cử để tái thống nhất đất nước đã trở nên quá rõ ràng. Trung Quốc quan tâm tới việc mở rộng ảnh hưởng của chính mình ở Sài Gòn hơn là giúp Việt minh giành thắng lợi chính trị và tái thống nhất đất nước…

“Chúng tôi lẽ ra đã có thể giành được hơn nhiều, nhiều lắm. Chúng tôi đã thỏa thuận trước với người Trung Quốc về mọi vấn đề – nhưng Chu Ân Lai đã họp kín với Măng-đét Phrăng, và tất cả đều bị thay đổi. Nếu lúc đó chúng tôi cứ tiếp tục chiến tranh, thì có lẽ chúng tôi đã thắng và được tất cả. Phải nói rằng người Trung Quốc đóng một vai trò cực kỳ nguy hiểm trong suốt cuộc thương lượng, và đã phản bội chúng tôi một cách đê tiện nhất”.

Việc các nhà lãnh đạo Việt Nam giữ gìn điều bí mật về vai trò của Trung Quốc tại Hội nghị Giơ-ne-vơ là một điều đáng khâm phục về tính thận trọng, ý thức trách nhiệm và tinh thần đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa – nhưng cũng là một điều đáng tiếc là họ không thông báo rộng rãi trong một chừng mực nào đó những việc xảy ra sau hậu trường ở Hội nghị. Tôi đã từng theo dõi đưa tin về Hội nghị Giơ-ne-vơ, đã từng thường trú ở Hà Nội trong nhiều năm để đưa tin về việc thi hành các quyết định của Hội nghị, đã từng có vô số cuộc nói chuyện với Cụ Hồ Chí Minh, ông Phạm Văn Đồng, ông Võ Nguyên Giáp và những người khác, nhưng tôi chẳng hề được một gợi ý xa xôi nào về những gì xảy ra sau hậu trường ở Giơ-ne-vơ, cho mãi đến khi Trung Quốc đã phạm điều phản bội tột cùng bằng cách xâm lược Việt Nam!…”(1)

4. Lại nữa: “Chính quyền Việt Nam cộng hòa có bao giờ tuyên ngôn chủ quyền các đảo đó không, hay chỉ mãi đến năm 1974 mới điều hải quân ra trấn giữ và bảo vệ? Chúng ta đã bao giờ dành thời gian nghiên cứu xác nhận thông tin trước khi đấu tranh đòi chủ quyền chưa nhỉ?”.

Thưa Tiến sĩ, cô đọc được tiếng Việt và tiếng Pháp không? Thôi thì tôi nhắc lại tài liệu sau đây bằng hai thứ tiếng Pháp-Việt cho cô dễ hiểu:

Ngày 5.9.1951, trong phiên họp khoáng đại Hội nghị thứ 2 của Hội nghị San Francisco, Đại biểu Liên Xô Andrei A. Gromyko sau khi chỉ trích tính cách bất hợp pháp và sự vô nghĩa của bản Dự thảo Hòa ước của Anh – Mỹ để ký với Nhật Bản đã đưa ra một đề nghị 7 điểm gọi là để hướng dẫn việc ký kết hòa ước thực sự với Nhật Bản. Điểm 6 đề nghị trao trả hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa cho Trung Quốc. Nhưng hội nghị đã bác bỏ yêu cầu này với 48 phiếu chống.

Hai ngày sau, ngày 7.9.1951 Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu, Trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam, đã lên tiếng tái xác định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước 51 phái đoàn ngoại giao như sau:

Và nói một cách thẳng thắn rằng phải tranh thủ mọi cơ hội để chặn đứng những mầm mống gây xung đột, chúng tôi xác nhận chủ quyền của chúng tôi trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vốn từ xưa đã thuộc lãnh thổ Việt Nam”.

(“Et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les germes de discorde, nous affirmons nos droits sur les îles Spratley et Paracels qui, de tout temps, ont fait partie du Viet Nam”)

Lời tuyên bố đó đã được Hội nghị San Francisco ghi vào biên bản và trong tất cả 51 phái đoàn, không có một phái đoàn nào phản đối.

5. “Xét cho cùng, đất nước Việt Nam, lãnh thổ Việt Nam hiện nay có được là nhờ sự “mở mang bờ cõi” Nam tiến vào lãnh thổ Chiêm Thành, Khơ-me.

Lịch sử là vậy, đất đai dân cư di dời, sở hữu chuyển đổi, do thỏa thuận cũng như do xâm lấn.

Rút cục, có thể nói chủ nghĩa dân tộc mù quáng đôi khi cũng tai hại không kém gì chủ nghĩa bành trướng đế quốc vậy”.

Xin thưa với Cô Tiến sĩ Quan hệ Quốc tế và Hoa Kỳ học:

Nếu dựa vào những lý lẽ “lịch sử” theo kiểu như vậy, tuy có phần hấp dẫn đối với cô nhưng rõ ràng sẽ mở ra một hộp Pandoras của những xung đột không thể nào giải quyết được[2].

Một sách giáo khoa về luật pháp quốc tế của Michael Akehurst khái quát vấn đề chung đó như sau : “Đất đai chinh phục được ngày nay, hoặc ít ra đất đai do một kẻ xâm lược chinh phục, thì không thể được thừa nhận quyền sở hữu. Trong quá khứ thì được. Nhưng quyền sở hữu trước kia dựa vào sự chinh phục bây giờ có trở nên mất giá trị không? Nếu trở nên mất giá trị, thì kết quả sẽ rất là sửng sốt; nếu rút ra kết luận logic của việc đó, thì có nghĩa là bắt Mỹ sẽ trả lại cho người Idian da đỏ, và người Anh sẽ phải trả lại nước Anh cho người xứ Welsh”[4].

Những ví dụ như vậy có thể nhân lên không bao giờ hết. Kết luận mà phần đông các nhà cầm quyền đạt được là những khái niệm về luật pháp quốc tế không thể áp dụng lui trở lại cho các cuộc xung đột trong quá khứ để làm mất giá trị pháp lý của những biên giới ngày nay được.

Những vấn đề đó đặc biệt gay gắt trong các thuộc địa cũ của các cường quốc thực dân Châu Âu. Akehurst nhận xét: “Những biên giới thuộc địa, được vạch ra bằng vũ lực trong các thế kỷ trước, ngày nay phần lớn đã trở thành những biên giới của những nước mới độc lập, mà không nước nào muốn thấy biên giới của họ bị đưa ra đặt vấn đề lại. Các nước Mỹ La tinh và Á-Phi, với một cái ngoại lệ (như Trung Quốc chẳng hạn) đã đồng ý rằng các biên giới thuộc địa phải được tiếp tục sử dụng, theo luật pháp quốc tế, như những biên giới sau độc lập. Ở Mỹ La tinh, điều đó được hiểu là nguyên tắc Utipossidetis, nghĩa là: Như bạn đã sở hữu, bạn sẽ tiếp tục sở hữu[5]. Các biên giới thuộc địa, nhất là ở Châu Phi thường không theo thiên nhiên, không tính đến sự phân chia của bộ tộc và cắt qua các khu vực thuộc cùng một đơn vị kinh tế, nhưng vì các quốc gia mới được độc lập không thể đồng ý vạch lại một cách triệt để các biên giới nên khôn khéo hơn cả là duy trì các biên giới hiện có để tránh tình hình mất ổn định và xung đột.

Như vậy, lý luận như Tiến sĩ thì nước Mỹ cũng là một phần của Trung Quốc như một vị tướng Trung Quốc từng tuyên bố gần đây.

5. Cuối cùng, “Những blogger đấu tranh cho chủ quyền lãnh thổ đã bao giờ đọc Đại Việt sử ký [6], Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư hay Việt Nam sử lược ở dạng nguyên bản, chưa qua biên soạn, cắt xén chưa?”

Người dân Việt Nam bắt nguồn từ Trung Quốc, Vua của Việt Nam cũng khởi tổ từ người Trung Quốc, coi vua Trung Quốc như anh như cha… từ Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, hay Lý Công Uẩn, rồi các gia tộc họ Trần, Lê, Nguyễn, v.v…

Chúng ta đã bao giờ tự hỏi mình xem lịch sử Việt Nam mà chúng ta học có đúng là lịch sử không?”

Một câu hỏi thật bất ngờ, tôi không tin rằng ở một trường đại học danh tiếng của Mỹ lại có một giảng viên ngạo mạn và kém cỏi về lịch sử nước nhà đến thế.

Thưa Tiến sĩ Đỗ Ngọc Bích, đọc những quan điểm và cách đặt vấn đề về lịch sử của cô, chúng tôi không thể không nghi ngờ về trình độ hiểu biết sơ đẳng cũng như tự hỏi rằng Tiến sĩ Đỗ Ngọc Bích hẳn phải là một người Hoa xa xứ Trung Quốc?

Chào trân trọng

Chú thích:

[1] Xin xem bài của Đỗ Ngọc Bích: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2010/04/100417_do_ngoc_bich.shtml

[2] Wilfred G. Burchett, China, Cambodia, Vietnam Triangle, Vanguard Books, 1982.

[Tam giác Trung Quốc – Campuchia – Việt Nam, NXB TTLL, HN, 1986].

[3] – Theo thần thoại Hy Lạp, Pandoras là người đàn bà do Thần lửa tạo ra và bị đưa xuống để trừng phạt trần gian đã lấy trộm lửa. Thần Zeus cho chị ta một cái hộp, khi mở ra thì đủ tất cả các thói hư tật xấu bay ra làm ô nhiễm cả thế giới. Hộp Pandora do đó có nghĩa là vật hào nhoáng nguy hiểm.

[4], [5] – Grant Evans – Kelvin Rowley. The Red Brotherhood at war (bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Tấn Cưu – Chân lý thuộc về ai?), NXBQĐND, 1986.

[6] Cuốn sách này từ lâu đã mất, có thể do giặc Minh đốt phá trong cuộc xâm lược Việt Nam 1406-1407 theo lệnh chỉ của Minh Thành Tổ. TS Đỗ Ngọc Bích là người chuyên giảng dạy lịch sử các quan hệ quốc tế, xin hỏi đã bao giờ cô đọc được cuốn ấy hay chưa mà hỏi người khác đọc hay không đọc nó? (chú thích thêm của BVN).

Nguồn: Bài do tác giả gửi trực tiếp cho BVN.

This entry was posted in Trung Quốc and tagged . Bookmark the permalink.