John Nery, Philippine Daily Inquirer, ngày 29 tháng 4, năm 2014
Phan Văn Song dịch
Năm 1933, người Pháp phô trương sức mạnh thuộc địa của họ và sáp nhập 9 đảo thuộc quần đảo Trường Sa[1]. Khi tin tức lan đi, nước Trung Hoa Dân Quốc còn non trẻ và bất ổn phải đối mặt với một vấn đề cơ bản: Họ chẳng biết quần đảo Trường Sa ở đâu.
Một năm trước đó, người Pháp đã đưa ra yêu sách đối với quần đảo Hoàng Sa như là một phần của thuộc địa của họ ở Việt Nam. Yêu sách thứ hai của Pháp đối với một phần của quần đảo Trường Sa làm Trung Quốc rối bời. Như học giả Francois-Xavier Bonnet của IRASEC, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á đương đại, lưu ý:
“Hai yêu sách chủ quyền của chính phủ Pháp… không những làm công chúng và các phương tiện truyền thông Trung Quốc mà cả các cơ quan chính thức như quân đội và các chính trị gia ở tỉnh Quảng Đông và Bắc Kinh đều rối trí. Thật ra, người Trung Quốc tin rằng quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa hoặc Tây Sa là cùng đúng một nhóm, nhưng người Pháp chỉ vừa đổi tên như một thủ thuật để làm chính phủ Trung Quốc nhầm lẫn. Để xác định vị trí của quần đảo Trường Sa, ông Kwong, Lãnh sự Trung Quốc tại Manila, đã tới Cơ quan Khảo sát biển và trắc địa Mĩ ngày 26/07/1933 và ngạc nhiên phát hiện ra rằng quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa là khác nhau và cách xa nhau.”
Tôi được Bill Hayton, phóng viên của BBC chỉ cho bài viết được nhiều người đọc của Bonnet, Địa chính trị của bãi cạn Scarborough (một bài viết ở thứ bậc có 100 000 lượt tải về với phiên bản PDF kể từ khi nó được đăng lần đầu hồi tháng 11 năm 2012). Tôi thấy rằng bài giảng dựa trên bản đồ của ông về nguồn gốc của các yêu sách của Trung Quốc đối với Biển Đông hôm thứ Sáu tuần trước tại Đại học Philippines là rất kích thích suy nghĩ. Khi tôi hỏi Hayton khai triển thêm quan điểm của ông rằng vào năm 1933 chính phủ Trung Quốc thậm chí còn không biết quần đảo Trường Sa ở đâu, ông giới thiệu tôi tới Bonnet cũng ngồi trong số người tham dự (ngay bên cạnh Chuyên viên cao cấp Tư pháp Antonio Carpio).
Bonnet và Hayton đã cho tôi một số bản sách và các đường dẫn (link) đến tài liệu chủ chốt (quyển Biển Đông: khu vực nguy hiểm của Hayton mà Đại học Yale sẽ xuất bản vào cuối năm nay; tên sách là một cách chơi chữ bằng tên khác của quần đảo Trường Sa.) Chắc chắc, họ làm cho việc đọc hấp dẫn, phần lớn thông tin đều có sẵn trực tuyến. Thậm chí điều trớ trêu thú vị về việc một lãnh sự Trung Quốc tham khảo ý kiến văn phòng của chính quyền thuộc địa Hoa Kì ở Manila để xác định vị trí của quần đảo Trường Sa đã được đàm tiếu trong giới học thuật và trên mạng Internet ít nhất một thập kỉ.
Năm 2004, Bonnet viết bài The Spratlys: A Past Revisited[Trường Sa: Một quá khứ xem xét lại] cho World Bulletin, một ấn phẩm của Viện Nghiên cứu Pháp lí Quốc tế của Đại học Philippines. Bài này có một phần về “sự nhầm lẫn của Trung Quốc” về vị trí của 9 hòn đảo bị sáp nhập trong quần đảo Trường Sa.
Tuy nhiên, giai đoạn cụ thể này trong lịch sử vẫn còn ít được biết đến. Một số đoạn từ bài viết năm 2012 của Bonnet có lẽ đáng được nêu lại ở đây.
Thứ nhất, chú thích sau đây. “Ngày 01/08/1933 Lãnh sự gửi báo cáo cho Bộ Ngoại giao Trung Quốc, cho biết:”Các đảo [trong quần đảo Trường Sa mà người Pháp sáp nhập] được gọi chung là Tizard Bank[2] và nằm cách Hải Nam 530 dặm, cách Hoàng Sa 350 dặm và cách Palawan 200 dậm… Các báo cáo cho rằng 9 hòn đảo này là một phần của quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa] là không chính xác.”[3]
Thứ hai, trích dẫn sau đây từ một lá thư của Wang Gong Da, Giám đốc Peiping News[Tin tức Bắc Bình], gửi bí thư ngoại giao [foreign affairs secretary]: “Đừng gây ra một sai lầm ngoại giao; các đảo này không thuộc quần đảo Tây Sa. Đảo Tri Tôn [thuộc Tây Sa] là phần cực Nam của lãnh thổ của chúng ta [điều này được viết trước khi Trung Quốc có nỗi ám ảnh vô lí với bãi ngầm James]. Phía nam đảo Tri Tôn, không có dính dáng tới lãnh thổ Trung Quốc. Những kẻ được gọi là chuyên gia, nhà địa lí, đại diện Hải quân, v.v. của chúng ta làm điều hổ thẹn cho đất nước.”
Và thứ ba, đoạn sau trích từ một báo cáo bí mật của Hội đồng quân sự, ghi ngày 01/09/1933: “Tóm lại, chúng ta chỉ có một mẫu chứng cứ, các ngư dân của chúng ta từ đảo Hải Nam [có mặt trong một số chỗ thuộc quần đảo Trường Sa], và chúng ta chưa bao giờ làm bất cứ điều gì trên các đảo này. Chúng ta cần phải hạ nhiệt trận đấu với người Pháp, nhưng cứ để cho ngư dân của chúng ta tiếp tục hoạt động để bảo vệ quyền đánh cá của chúng ta. Hải quân của chúng ta yếu và 9 đảo này không có ích cho chúng ta bây giờ… ”
Tôi đã cố gắng tìm kiếm thêm thông tin về vụ sáp nhập năm 1933 và phản ứng của Trung Quốc. Có một bài báo (trong tất cả mọi chỗ) trên tờ Salt Lake Tribune, làm nổi bật những gì chắc chắn là thực tế địa chính trị của những năm 1930. Được ghi là từ Manila, báo cáo bắt đầu: “Cuộc chiếm đóng bằng tàu thuyền do Pháp phái tới 9 đảo cách Philippines 200 dặm về phía tây [báo cáo nêu đúng về sự kiện này] trong Biển Đông là tín hiệu của một cuộc chạy đua giữa hai toà lãnh sự Nhật Bản và Trung Quốc ở đây để có được thông tin xác thực về nhóm đảo này.”
Có một bản ghi nhớ nội bộ của Bộ Ngoại giao Mĩ, trong đó lưu ý rằng “Một báo cáo chính thức đề ngày 28/07/1933 từ Manila nêu rằng lãnh sự Trung Quốc Kwong được chính phủ ông chỉ thị điều tra việc người Pháp chiếm đóng quần đảo này và báo cáo lại vì chính phủ Trung Quốc có ý định phản đối sự chiếm đóng của Pháp. Lãnh sự Trung Quốc đã gửi một báo cáo sơ bộ.”
Và K. L. Kwong là ai? Chúng tôi biết, theo sách Who’s Who in China 1934 [Ai là ai ở Trung Quốc] thì ông ta là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, từng đại diện Trung Quốc tại Hội Quốc Liên[4] ở Geneva, và đã giữ chức Tổng lãnh sự Trung Quốc tại Philippines từ tháng 11 năm 1930 đến ngày 19 /06/1934; nhiệm sở tiếp theo của ông là San Francisco.
J. N.
(Một phiên bản không có chú thích của người dịch đã đăng trên Dân Luận ngày 30/04/2014)
Dịch giả gửi BVN.
[1]Bộ Ngoại giao Pháp tuyên bố chiếm đóng các đảo Trường Sa, An Bang, Song Tử Đông, Song Tử Tây, Loại Ta, Ba Bình, Thị Tứ cũng như các đảo nhỏ, rạn đá, bãi ngầm, bãi cạn phụ thuộc ngày 26/07/1933, còn việc chiếm đóng xảy ra trong tháng 4/1933 do các tàu Malicieuse, Alerte, Astrobale và de Lanessan thực hiện.
2Trung Quốc gọi là bãi Trịnh Hoà, bãi này chứa cả đảo Ba Bình, Nam Yết…
3Theo Thân báo (申報) số ra ngày19/8/1933, sau khi được Trung Quốc yêu cầu cung cấp tên và toạ độ các đảo thuộc Trường Sa mà Pháp chiếm đóng, Pháp đã gửi công hàm nêu rõ toạ độ các đảo chiếm đóng có kèm theo bản đồ vào ngày 4/8/1933. Trung Quốc không có hành động chính thức gì khác sau khi nhận được công hàm này.
4Hội Quốc Liên (The League of Nations) là tổ chức quốc tế thành lập sau Chiến tranh thế giới II, có thê coi như là tiền thân của Liên Hiệp Quốc hiện nay.