Có gì “đồng thanh tương ứng” giữa người tù đang cận kề bên cái chết và trang Bauxite Việt Nam?

Đọc bài viết “Ba ngàn chữ ký” của  Facebooker Lưu Gia Lạc ngày 27-3-2014 khiến tôi sững sờ. Mỗi dòng chữ xúc động của tác giả phơi trải một sự thật phũ phàng làm cho trái tim bất kỳ ai cũng phải đau thắt. Huống nữa là tôi, một trong ba sáng lập viên và là người chủ trì trang Bauxite Việt Nam trong gần suốt 5 năm. Hôm nay, vào lại đường link bài viết đó thì người viết đã rút bài xuống. Ngạc nhiên, không hiểu vì lý do gì, tôi đành đi tìm những thông tin xung quanh thầy giáo Đinh Đăng Định, người ký tên vào bản Kiến nghị Bauxite đợt 4 với số thứ tự 679, lật giở lại một số bài viết cáo buộc ông trên các loại báo chính thống, mới hay tội danh đích thực bao trùm nhất người ta quy cho ông chung quy vẫn là việc ông phản đối Dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Còn những tội khác như “móc nối với các phần tử, tổ chức phản động trong và ngoài nước để xuyên tạc chủ trương, đường lối chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước” (Người lao động 21/2/2012), “đòi đa nguyên đa đảng, phi chính trị hóa lực lượng CA, quân đội và đòi xóa bỏ điều 4 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam” (Công an Đà Nẵng, 21/2/2012), v.v. thì cứ đọc vào bản cáo trạng dành cho bất kỳ người dân Việt nào có ý thức ít nhiều về quyền tự do dân chủ của công dân, từng bị cơ quan chức năng khởi tố và kết án tù, cũng đều thấy câu chữ na ná tuồng như cóp lại của nhau, cho đến cái chấm phẩy, hay cách dùng những trạng ngữ “chặt chém”. Thế thì, dẫu có rút xuống khỏi trang facebook, trước sau cái giá trị thông báo trong bài viết của người ký tên Lưu Gia Lạc vẫn cứ còn nguyên. Giá trị thông báo ấy không phải là ở sự định lượng – một con số ba ngàn chữ ký đã chính xác hay chưa, thậm chí không có nghìn nào cả cũng vẫn không sao hết – bởi tinh thần cốt lõi mà tác giả tóm bắt được trên gương mặt Đinh Đăng Định là cái thái độ quyết liệt không đồng tình với một kế hoạch đào bới quặng mỏ tại một vùng đất mà kéo theo nó là hàng chục thứ hệ lụy tày đình, do chính người Tàu bày đặt ra và mớm ép, bắt Việt Nam thi hành.

Thì ra, vào tháng Tư năm 2009, khi ba anh em chúng tôi, Phạm Toàn, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Thế Hùng đang căng đầu phấp phỏng tính toán với nhau về một hình thức đấu tranh sao cho hiệu quả – để không đến nỗi không được ai nghe, trở thành vô duyên, cũng không đến nỗi rước lấy tai họa “sứt đầu bươu trán” –  nhằm phản bác lại Dự án Bauxite Tây Nguyên mà viên Tổng bí thư của đảng cộng sản thuở ấy mang từ nước Tàu về như một quả bom hẹn giờ thẩy vào “sân” Nhà nước – mà Nhà nước thì cố nhiên ngồi trên đầu hơn 85 triệu dân chúng Việt Nam – và được cả một bộ máy đảng răm rắp tuân theo, lại được ông Chủ tịch Quốc hội bấy giờ đặc biệt “ưu ái” cho lách luật bằng cách băm chặt thành nhiều khúc để ngân sách từng hạng mục nằm dưới mức phải đưa ra thông qua ở Quốc hội,  trong khi đó thì ông Phó thủ tướng (mà nay đã “đổi ngôi” giữ chức Chủ tịch Quốc hội) đứng giữa diễn đàn Quốc hội bặm miệng giơ tay chém chém vào không khí mà nói: “Bô xít không thể không làm!”, đến nỗi những lá thư phản đối kiên trì của Võ Đại tướng cũng như nhiều bản thỉnh nguyện của các bậc trí thức công thần liên tiếp gửi lên các vị cầm chịch tối cao đều chẳng ăn nhằm gì; đúng giữa cái lúc tình hình oi ngột như thế thì rải rác khắp nơi trên đất nước từ Nam chí Bắc, ít nhất cũng có hàng chục, chưa nói có thể hàng trăm, tấm lòng thao thức vì sự mất còn của dân tộc trước đại họa tiềm tàng này, cũng đang ngày đêm trăn trở, giằng xé không nguôi, trong đó có thầy giáo Đinh Đăng Định.

Và rồi các kiến nghị dừng Dự án bauxite Tây Nguyên 1, 2, 3, 4, 5… đã lần lượt tung ra, như những tiếng chuông mạnh gióng lên trong dư luận, khởi sự từ đầu tháng Năm, liên tục kéo dài cho đến cuối năm 2009 (và cả năm 2010), cùng lúc với sự xuất hiện trang blog, kế đấy là trang mạng Bauxite Việt Nam, được người Việt khắp trong và ngoài nước nhiệt liệt hưởng ứng, tạo nên một không khí phấn động lạ thường. Việc ký tên vào Kiến nghị, từ chỗ là một việc còn lạ lẫm ngỡ ngàng, xét về mặt tâm lý tiếp nhận, kể cả một chút sợ hãi vô hình phảng phất đâu đó như một ám ảnh, đã nhanh chóng chuyển thành thói quen, một việc làm đàng hoàng chính đáng, làm người ta trở nên bạo dạn. Người ký tên mỗi đợt có lúc lên đến con số nghìn. Các trang mạng bè bạn vì thế cũng bạo hẳn lên với những lời lẽ châm biếm sát sườn, chua cay, chỉ trích thẳng thắn bất kỳ hành vi nào của những kẻ cứ khăng khăng bám víu vào hàng loạt con số tính toán trên giấy để bênh che cho cái Dự án mà ai có lương tri cũng biết là việc đùa với lửa vô cùng dại dột. Thậm chí khi một nhân vật như Lê Dương Quang đại điện cho TKV ra giữa Quốc hội lớn tiếng nhục mạ những người trí thức ký tên vào Kiến nghị, rằng họ đã “ăn phải bả của thế lực thù địch” thì ông ta chỉ chuốc lấy những tai tiếng tày đình vì chính hành vi “ăn có nói không” của mình. Có thể nói một phong trào dân sự bắt đầu dấy lên từ đây, trên một đất nước suốt hàng bao nhiêu năm vốn chỉ biết cúi đầu vâng lệnh “đảng quang vinh”.

Về phía những người xướng xuất Kiến nghị, phải nói cũng đã trải qua nhiều chặng biến thái tâm trạng khác nhau. Nỗi lo lắng buổi đầu tiên đón đợi phản hồi của dư luận là một hồi hộp khôn tả. Tôi còn nhớ đã phải canh giờ chờ đợi VTDH từ Paris gọi điện về báo tin chị đã liên lạc được với GS Trần Văn Khê để cho tôi nói chuyện trực tiếp với ông, trong bụng đang không thật tự tin bỗng thở phào sung sướng khi đầu dây bên kia vị GS già cất tiếng nhận lời ký tên. Và khi con số người ký mỗi ngày một tăng, mỗi đợt lại có thêm hàng trăm người mới xin ghi danh, và hàng ngày cả ba sáng lập viên đều nhận rất nhiều thư điện tử phản hồi cổ vũ, thì chúng tôi bỗng trở nên vững bụng hơn, có khi chuyển từ trạng thái căng thẳng ban đầu sang cái thái cực gọi là lạc quan tếu nữa, vì nghĩ rằng thế nào thì ông đảng và ông nhà nước cũng sẽ phải thột tỉnh trước “cánh chim báo bão”, sẽ lắng nghe và chấp nhận tiếng nói của “lòng dân”. Trong vòng 4 tháng tính từ đầu tháng Năm 2009, Kiến nghị bauxite đúng là “diều gặp gió” cứ thế mà bay lên.

Chúng tôi lạc quan đến mức vào cuối thu 2009, cả một dải miền Trung đất nước gặp “bão dồn lũ dập”, anh em đã hăng hái bàn nhau cho phát ngay lên mạng lời kêu gọi quyên góp tiền bạc nhằm tổ chức cứu trợ lụt bão. Và sau khi nhận được một khoản kinh phí khá lớn trong một thời gian tương đối ngắn, trong đó người đóng góp lớn nhất và tích cực nhất là TS. Phùng Liên Đoàn – ông đóng dôi ra cho chúng tôi đủ tiền đi lại – chúng tôi liền lập hai đoàn cứu trợ xuất hành cách nhau chưa đầy một tháng, với sự giúp đỡ tận tình của anh em trí thức Đà Nẵng, lần thứ nhất vào đến Phú Yên, ra cả đảo Lý Sơn và lần thứ hai lên đến tận Tumơrông Tây Nguyên.

Ở bất kỳ nơi nào chúng tôi tìm đến, người dân cũng bộc lộ những tình cảm đôn hậu, chân thành. Tôi không thể nào quên được cái ngày chạy xe một mạch từ Đà Nẵng vào Phú Yên, phát được cho 12 gia đình thì trời tối phải quay ra. Nhưng khi xe vừa ngang qua cổng Ủy ban xã thì một người chạy bổ từ trong sân ra chắn ngay trước xe. Mở cửa bước xuống là một bộ mặt đen thủi, gầy tọp, râu ria tua tủa, đứng đối diện với tôi. “Em là Chủ tịch xã đây. Chỉ có một yêu cầu. Mai các anh chị thế nào cũng quay lại. Vì chỉ mới được có bằng nấy gia đình. Bao nhiêu người sập hết nhà và chết người nữa, chưa có gì ngoài mấy ký mì và chai nước mắm của một đoàn đến trước. Không quay lại thì dân họ xé thịt em ra”. Nghe lời nói thẳng tuột của anh, chúng tôi không thể không thay đổi chương trình, nhận lời thêm vào lịch trợ cứu cho Phú Yên một ngày nữa. Nhưng trước khi ra nhà trọ còn được nghe thêm anh Chủ tịch xã phơi bày gan ruột – nghe mà không hết ngạc nhiên, cảm động: “Em trông già sụm thế này nhưng mới xấp xỉ 30 thôi đấy. Thức trắng từ hôm nước tràn về đến nay. Mới tốt nghiệp Đại học Kinh tế tại Sài Gòn được mấy năm. Đại học chính quy hẳn hoi”. Hôm sau y hẹn, chúng tôi quay lại phát khắp lượt bà con trong xã của anh, trong đó có một gia đình phải đến tận nơi theo lời yêu cầu của anh Chủ tịch – để hiểu được người ta đang phải chịu đựng mất mát như thế nào. Gia đình này có hai vợ chồng trẻ mà chồng còn mếu máo được vài câu, còn vợ thì cứ ngồi ngây ra không nói không rằng, nhìn chúng tôi trừng trừng. Hỏi ra mới biết vì đập thủy điện xả van nên nước ập về nhanh quá, gia đình có hai con một trai một gái vội đẩy con lên bàn còn vợ chồng đứng dưới đất, nào ngờ dòng nước quái ác xoáy đúng vào cái bàn, và sau khi nước rút nơi đấy chỉ còn là một lỗ trũng sâu hoắm. Cách nhau gang tấc mà bố mẹ sống trong khi con mất dạng. Tôi cũng không thể nào quên được cặp mắt một bé gái ở Lý Sơn, cặp mắt mở to đứng ở cửa nhìn hút theo chúng tôi, khi cả đoàn từ trong nhà em đi ra: đấy là một mẹ và 5 con còn bé choắt, đầu đứa nào cũng chít vành khăn trắng, mẹ chỉ biết khóc vùi, vì bố vừa rơi từ mái nhà xuống chết đúng trong cơn bão. Tôi càng găm vào trí mình ấn tượng một ngày nhịn đói nhịn khát ròng rã lội suối trèo đèo, vượt qua vô số đoạn đường sạt lở thành sông, để mang niềm vui, dẫu rằng chỉ gói trong mấy xe tải chở tôn và một số tiền không nhiều nhặn gì cho lắm, đến với bà con Xơ Đăng ở Tumơrông vốn đang bị sập hết những ngôi nhà sàn vì lũ cuốn. Tuy ngay trong đêm ấy, đứng ở giữa mảnh sân Ủy ban xã đón cơn gió lạnh cao nguyên thổi lộng óc, nhìn sang thân thể liêu xiêu vì đói của anh Phạm Toàn đứng kế bên, tôi đã linh cảm một điều gì đó chẳng lành, nước mắt bỗng ràn rụa chảy ra khiến Toàn và TN phải nắm chặt lấy tay, vỗ về: “Bình tâm đi!”. Nhưng cũng chỉ là một linh cảm thoáng qua rồi tắt nhanh, bởi trong lòng vẫn tràn trề hy vọng, tin vào chính đại quang minh của những việc mình làm.

Chúng tôi đã bé cái nhầm. Người ta đâu có cần mình nói lời nói thẳng. Những lời nói thẳng vì lợi ích đất nước nhưng lại xóc vào gan ruột những ai ai đấy. Chúng tôi quên mất rằng lợi ích dân tộc từ lâu rồi đã bị lợi ích nhóm giày đạp và xé cho tơi tả. Cho đến vài ngày cuối năm 2009, khi trang Bauxite Việt Nam bất ngờ bị đánh sập, và những lá thư nặc danh bôi nhọ giữa Phạm Toàn và tôi được ném lên mạng thì chúng tôi mới vỡ lẽ về sự thơ ngây nông nổi của mình. Và rồi một cuộc khám nhà, khám máy tính, và 22 ngày thẩm vấn liên tục tiếp theo đã mở mắt cho tôi. Mọi hy vọng mơ hồ cứ thế tắt lịm đi. Cho đến hôm nay, khi thực tế sờ sờ về tai họa nhãn tiền của dự án Bauxite Tây Nguyên – chỉ mới tính riêng về mặt kinh tế – đã hiển hiện và được báo chí phơi bày, cả Phạm Toàn và tôi cũng không còn lạc quan mấy nỗi. Sự đời là thế, dẫu biết chết mười mươi đi nữa, những kẻ “theo lao” đâu có chịu dừng lại. Những con bạc khát nước ấy sẽ đâm đầu vào Cái Chết cho đến khi trắng mắt. Nhưng đó là nói lẽ đời, chứ cụ thể ở đây thì chết là chết Dân, chết Nước chứ “đương sự” có chết đâu. Họ vẫn sống khỏe, còn khỏe hơn khi chưa “đâm đầu” là khác. Và trên con đường của những con thiêu thân thần kỳ nọ, người ta sẽ không nể nang gì mà không chà đạp, nếu chà đạp được, lên thân phận của cái thằng mình.

Bài học rõ ràng nhất chính là trường hợp thầy giáo Đinh Đăng Định. Đọc bài viết về Đinh Đăng Định của Lưu Gia Lạc mà không khỏi bàng hoàng biết ông là một nạn nhân tồi tệ của chuyện ký tên vào Kiến nghị Bauxite. Không, bài của Lưu Gia Lạc đã rút xuống nên chuyện ấy thì án từ của ông rồi đây sẽ soi tỏ cho chúng ta. Tôi muốn nói đến một phía khác của con người này kia: ông đúng là một người “đồng thanh tương ứng” với bản Kiến nghị của chúng tôi đến tận trong tâm khảm, và vì thấm sâu lời cảnh báo gớm ghê của nó nên không chỉ tham gia ký tên mà ông còn đã thầm lặng, một mình một xe, đi vào các xóm làng để lấy bằng được thật nhiều chữ ký đáp ứng lời kêu gọi dừng dự án khai thác bauxite ở Tân Rai và nhất là Đắc Nông. Cũng là dễ hiểu và chẳng có tội lỗi gì ở đây, bởi nếu không có những sự thầm lặng góp sức của những người như thế, chúng tôi làm sao thực hiện nổi 5 bản Kiến nghị đầy ắp chữ ký trên trang Bauxite Việt Nam được. Hoặc giả tuy không hề biết đến những Kiến nghị lan truyền rất rộng vào thời điểm ấy (giả định này là phi thực tế),  song do “chí lớn gặp nhau”, là người tận mắt chứng kiến việc ồ ạt phá rừng để triển khai dự án Bauxite tại địa điểm Đắc Nông nơi mình cư ngụ, thầy giáo Đinh Đăng Định đã tự phát lên tiếng cự tuyệt và vì thế rước họa vào mình. Đằng nào thì cũng thế thôi.

Thử hỏi, những việc ông làm, dù tự phát hay từ Kiến nghị của chúng tôi, giá thử có lặn lội đi lấy chữ ký của ba nghìn người dân cho bản Kiến nghị đi nữa, liệu chưa đủ để giúp người cầm chịch nhận ra ở người thầy giáo họ Đinh không phải là một việc làm “sách động” mà là một mục tiêu chí cốt cao xa hơn nhiều: giác ngộ và quy tụ lòng căm phẫn của đồng bào vào một kẻ thù chung hết sức nguy hiểm là lũ bành trướng Đại Hán mà chính ông đã nhìn thấu tim đen, ẩn trong một Dự án chứa nhiều bất cập như dự án Bauxite triển khai ngay trên “mái nhà” trung tâm – tử huyệt của đất nước? Từ đó, thử hỏi, giữa một Đinh Đăng Định và những kẻ đã tra vấn, hành tội ông, đẩy ông đến những ngày cuối của căn bệnh ung thư, ai là người yêu nước, thật tâm muốn ngăn chặn những nguy cơ tày trời cho dân tộc, và ai là phường phản dân hại nước? Viết đến đây tôi lại cứ như nghe trong tai mình đang ong ong những lời xỉ vả đám trí thức của ông Lê Dương Quang năm nào giữa diễn đàn Quốc hội. Bỗng chốc, một thứ triết lý sống ngạo ngược của cuộc sống hôm nay cứ hiện rõ ra dần: Ai chết cứ chết, ai giành được một miếng cứ việc ngoạm, và ngoạm xong đâu đấy – như kiểu gã trung tá KGB gian giảo vừa ngoạm xong Crimé của Ukraine – thì tự nhiên tất cả mọi thứ, lợi lộc, chính danh, chính nghĩa cũng khắc tuôn hết vào tay. “Mười lăm thằng trên hòm người chết / Be rượu rom say tít cung thang Quinze hommes sur la poitrine du mort, yohoho et une bouteille de rhum!” (Châu đảoL’ île au trésor – của Stevenson).

N.H.C.     

————————————

Phụ lục: BA NGÀN CHỮ KÝ … (Bài do BVN lưu được)

Lưu Gia Lạc

Ngồi lặng lẽ bên người thầy giáo gầy guộc nhỏ bé không muốn rời mặc dù đêm trước chỉ ngủ được khoảng 3 tiếng đồng hồ, đôi mắt cay xè nhưng cơn buồn ngủ vẫn không thể đến. Tôi không dám hỏi han nhiều vì sợ anh mất sức nếu phải trả lời, hình như cứ mỗi lần tôi ngồi bên xoa nhè nhẹ cho anh là đôi mắt anh lại khép lại như muốn ngủ, tôi rất mong anh ngủ được vì biết rằng giấc ngủ 5, 10 phút đồng hồ đối với anh thật hiếm hoi trong một ngày liên tục phải chống đỡ với những cơn đau, với những lúc lộn ruột gan ra, gồng mình lên để ói ra mật xanh mật vàng …

Được một lúc anh đưa tay cho tôi, cầm tay anh bóp nhẹ như muốn hỏi, anh cố một nụ cười mà có vẻ như không có sức, tôi ghé sát nhìn vào mắt anh, đâu rồi đôi mắt tinh anh thuở nào, còn phảng phất đâu đây cái nét ngạo nghễ ngước nhìn lên trên như thách đố, như đón chờ những điều không hay đang đến… trong đầu tôi lướt qua hình ảnh cậu học trò môi đỏ như son, hai má lúc nào cũng hồng lên như má của thiếu nữ, và mọi thứ đỏ hơn khi cậu học trò đó ngang nhiên tranh luận gay gắt với thầy giáo của mình về một cách giải mới về một bài toán khó mà cậu mới tìm ra chưa được thầy công nhận.

Tôi biết con người ấy không dễ gì khuất phục, tôi chợt nhớ rồi hỏi nhỏ:

– Khu vực này có bao nhiêu người dân ký vào bản kiến nghị phản đối dự án Bauxit giết người kia?

– Ba ngàn… dân quanh vùng.

– Một mình một xe máy phải không? Thời gian bao lâu?

– Từ khi có lời kêu gọi trên trang Bauxite đến khi tôi bị bắt, chỉ mình tôi với nó…

Anh đưa mắt tìm tòi, tôi hiểu anh muốn chỉ cho tôi cái xe máy đã bao lần thay áo (sơn) mà tôi đã nhìn thấy khi đến đây.

Lặng đi không nói, tôi quay đi, mắt tôi cay xè, không thể, tôi đâu có thể chảy nước mắt một cách dễ dàng như thế, tôi đâu có là một thằng đàn ông yếu mềm cơ chứ. Tôi nắm chặt tay anh thêm và rồi đứng lên ra phía sau nhà rửa mặt, tôi không thể để anh thấy tôi ủy mị, càng không muốn sự ủy mị ấy lan qua anh… không, tôi không hề muốn điều đó.

Xả nước ra xối vào mặt, làn nước lạnh làm tôi tỉnh người, một cảm giác khang khác lạ lẫm chợt đến trong tôi, tôi ngỡ ngàng nhìn cái bể nước mới.

– Một chú đến thăm bố rồi tranh thủ làm cho mẹ con cái bồn nước mới đó chú.

Thảo nói và xả thêm nước rồi đưa tôi chiếc khăn lau mặt, tôi lắc đầu cứ để dòng nước chảy dài xuống cổ, tôi thích thế, thích sự tươi mát của dòng nước khi mà mọi thứ vẫn còn oi nồng, và mỉm cười với ý nghĩ: Sống bao nhiêu năm, bao nhiêu ngày không quan trọng, nhưng sống mà để đến những phút cuối bỗng dưng có bao nhiêu con người xa lạ mà anh chưa từng biết, chưa từng nghe, chưa từng gặp đến với anh như những người ruột thịt, sẵn sàng gánh vác san sẻ cùng anh thì quả là sống một ngày, một tháng hay một năm cũng đã là sướng cả một đời người. Sống được như thế mới thực sự gọi là sống! Và như thế thì sống bao lâu cũng chẳng còn quan trọng gì nữa. Nghĩ thế tôi phấn chấn bước vào với anh, trong đầu cứ hiện lên một con số 3000, ba ngàn người, ba ngàn chữ ký của những người nông dân quanh vùng, con số ấy nói lên tất cả, con số ấy là phần thưởng cao quý nhất mà anh đã giành được ở đời, nó hơn mọi huân huy chương cao quý nào khác, nó hơn mọi sự vinh danh của người đời.

Ba ngàn, con số của sự thầm lặng, khiêm nhường nhưng của một con người không hề biết khuất phục, để có con số ấy anh đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình.

Tôi muốn thét lên, gầm lên vì con số 3000 ấy!

L.G.L.

Nguồn: https://www.facebook.com/gialac.luu (Hiện không còn lưu hành)

 

Nguồn ảnh: https://www.facebook.com/gialac.luu

 

 

This entry was posted in Bô-xít, Lên Tiếng. Bookmark the permalink.