Trung Quốc ở Biển Đông: Sự đã rồi

Tất cả đã kết thúc nhưng vẫn còn rất nhiều tiếng la hét

B A HamzahAsia Sentinel 03.10. 2024

Bản dịch của BVN

Biển Đông đã trở thành ao nhà của Bắc Kinh. Cho dù Philippines, Việt Nam, Hoa Kỳ, các tòa án quốc tế và các nước khác tiếp tục phản đối mạnh mẽ, thì Trung Quốc vẫn đã thắng. Nước này tuyên bố quyền thống trị trên thực tế bên trong vùng đặc quyền kinh tế dài 370 km của bảy quốc gia ven biển khác được quy định bởi Luật Biển mà họ hoặc Hoa Kỳ dường như chỉ có thể làm rất ít về tuyên bố đó.

Bắc Kinh đã củng cố tuyên bố chủ quyền của mình vào đầu năm nay với việc tiếp cận Căn cứ Hải quân Ream ở Campuchia, như Asia Sentinel đưa tin hôm 26/9, cho phép Trung Quốc có khả năng triển khai sức mạnh xa hơn ra biển và xa hơn nữa, điều này rất quan trọng đối với tham vọng trở thành cường quốc hải quân toàn cầu. Bằng cách kiểm soát các vùng biển này, Trung Quốc khiến các lực lượng Mỹ khó hoạt động tự do hơn và thách thức cấu trúc an ninh hiện tại do Mỹ dẫn đầu ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Bắc Kinh đã đưa ra các luật, quy tắc và quy định điều chỉnh hành vi trong vùng biển rộng 3,5 triệu km vuông, là một trong những tuyến đường vận chuyển bận rộn nhất thế giới với khoảng 3-5 nghìn tỷ đô la thương mại hàng năm,. Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa từ Nam Việt Nam vào năm 1974. Kể từ năm 2021, Trung Quốc đã đưa ra các quy định tuần tra hàng hải mới cho phép Cảnh sát biển của mình, ví dụ, giam giữ các tàu và cá nhân nước ngoài trong tối đa 60 ngày nếu nghi ngờ họ xâm nhập bất hợp pháp vào nơi mà Trung Quốc coi là lãnh thổ không thể tranh cãi của mình, được xác định bởi đường ranh giới 9 đoạn.

Theo một nhà chức trách ở Philippines, từ ngày 17 đến 23/9 có 251 tàu Trung Quốc ở Biển Tây Philippines, tăng so với 157 tàu của tuần trước đó. Trong đó có 28 tàu tuần duyên của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), 16 tàu chiến của Hải quân PLA, 204 tàu dân quân biển và ba tàu nghiên cứu và khảo sát. Bắc Kinh cũng thiết lập một hệ thống quản lý hành chính mới trên biển, mà vào thế kỷ 14 ông cha họ gọi là Nanyang (Nam Dương – Biển Nam). Năm 2020, Trung Quốc tuyên bố hai khu hành chính mới cho khu vực mà họ tuyên bố chủ quyền. Trước đó, toàn bộ khu vực được đặt dưới sự quản lý của đảo Hải Nam, vẫn xuất hiện trên các bản đồ cũ. 

Hai quận là Nam Sa và Tây Sa. Nằm trên đảo Chữ Thập [Fiery Cross], một hòn đảo nhân tạo, quận Nam Sa giám sát tất cả các đảo Trường Sa và vùng biển xung quanh. Đặt căn cứ trên đảo Phú Lâm, quận Tây Sa chăm sóc các khu vực xung quanh Hoàng Sa. Dựa trên đường chín đoạn năm 1947, Trung Quốc đã phát hành một bản đồ mới vào năm 2020, được cập nhật lần cuối vào năm 1983, đặt tên cho từng thực thể mà họ tuyên bố chủ quyền. Một bản sao trước đó của bản đồ này đã được đưa ra vào tháng Năm năm 2009 tại Liên Hợp Quốc sau khi Malaysia và Việt Nam cùng đệ trình về một thềm lục địa mở rộng mà Trung Quốc đã phản đối. Bản đồ năm 2020 củng cố cái mà Trung Quốc gọi là yêu sách không thể tranh cãi của họ đối với các vùng lãnh thổ mà họ gọi là “quần đảo Nam Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa[1] (Macclesfield Banks) và quần đảo Đông Sa (Pratas Reefs) và các vùng biển lân cận” là của họ.

Năm 2016, Tòa Trọng tài Thường trực ở The Hague phán quyết rằng các yêu sách của Trung Quốc dựa trên Đường chín đoạn không có cơ sở pháp lý theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Tuy nhiên, tuy đã ký kết UNCLOS năm 1996, Trung Quốc đã bác bỏ phán quyết này và tiếp tục các hoạt động quân sự trong ao nhà của mình. Nghịch lý thay, mặc dù bảo vệ hàng hải trong vùng biển, Mỹ không phải là một bên tham gia UNCLOS. Đối với Trung Quốc, các hoạt động của họ ở Biển Đông đã không vi phạm đáng kể quyền tự do hàng hải ở Biển Đông, mặc dù Hải quân Hoa Kỳ đã phàn nàn về các cuộc diễn tập không an toàn thường xuyên, điều mà Hải quân PLA đã phủ nhận.

Bất chấp sự phản đối từ một số quốc gia, trong đó có Mỹ, kể từ năm 2010, Trung Quốc tiếp tục củng cố yêu sách của mình bằng cách xây dựng các đảo nhân tạo và các cơ sở quân sự trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Bảy hòn đảo nhân tạo này được trang bị đường băng, hệ thống tên lửa và radar cho phép Trung Quốc triển khai sức mạnh quân sự ra xa đất liền. Việc tiếp tục quân sự hóa các hòn đảo này đã làm dấy lên lo ngại giữa các cường quốc khu vực và Mỹ. Đầu tuần trước, Mỹ đã tiến hành các cuộc tập trận quân sự ở Biển Đông với sự tham gia của Philippines, Australia, Nhật Bản và New Zealand, khi Trung Quốc tiến hành các cuộc tập trận quân sự của riêng mình. Thông qua các cuộc tuần tra và tập trận quân sự thường xuyên, Mỹ tìm cách ngăn chặn Trung Quốc khẳng định quyền kiểm soát trên thực tế đối với khu vực.

Đối với nhiều người Trung Quốc, ngoài tư cách là di sản, cái tên Biển Đông gợi lên cảm giác về quyền mà lịch sử đứng về phía họ. Đấy là một cái quyền đi kèm với ý thức về di sản lịch sử và vận mệnh chính trị. Cái tên của biển này là do người Anh đã đặt vào cuối thế kỷ 18 vì thuận tiện về chính trị. Nó đã mang lại cho Trung Quốc một bản sắc và ý thức sở hữu. Học sinh tiểu học được dạy để tin rằng lãnh thổ trên biển – mà ông cha của họ gọi là Nanyang [Nam Dương] vào thế kỷ 14 – là một phần của quê hương của họ, một biểu hiện của vận mệnh chính trị được thiết kế để thu hút khán giả trong nước.

Những tranh cãi gần đây với Philippines ở Biển Tây Philippines (Bãi Cỏ Mây [Second Thomas Shoal], Bãi cạn Hoàng Nham [Scarborough Reef], Bãi Sa Bin [Sabina Shoal], v.v.) dường như cho thấy rằng Trung Quốc sẽ không ngần ngại sử dụng vũ lực để đòi các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng bởi các cường quốc không thân thiện, đặc biệt là những nước liên kết với Mỹ để phản đối sự thống trị của Trung Quốc ở Biển Đông.

Nhiệm vụ chính của Bắc Kinh để bảo vệ vùng biển không được thúc đẩy bởi thương mại, dầu mỏ, khí đốt hay cá mà là bởi vị trí chiến lược của nó, cùng với mong muốn thúc đẩy và bảo vệ quyền lịch sử của mình. Ngay cả khi Biển Đông thiếu tài nguyên, Bắc Kinh vẫn sẽ muốn kiểm soát nó, giống như Mỹ, thông qua Học thuyết Monroe được công bố vào năm 1823, kiểm soát vùng biển Caribê. Là một lãnh thổ cốt lõi, Biển Đông là không thể thương lượng.

Washington cho rằng mục tiêu chiến lược của Bắc Kinh là thống trị các mối quan hệ ở Biển Đông thành mục tiêu rộng lớn hơn là phá vỡ cái gọi là Chuỗi đảo thứ nhất, bao gồm Nhật Bản, Đài Loan và Philippines. Trung Quốc đã vượt qua tình thế tiến thoái lưỡng nan này bằng cách giành được quyền tiếp cận căn cứ hải quân Ream. Kiểm soát Biển Đông sẽ cung cấp một chỗ đứng để mở rộng ra ngoài hàng rào dây chuyền đầu tiên và trực tiếp thách thức uy quyền hải quân của Mỹ ở Thái Bình Dương rộng lớn hơn, nơi sự hiện diện của Mỹ khá mỏng. Cam kết của Mỹ đối với Israel và Ukraine đã làm loãng các lực lượng quan trọng khỏi chiến trường Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Cam kết kéo dài ở Trung Đông và châu Âu có thể làm suy yếu khả năng bảo vệ Đài Loan của Mỹ.

Trong bối cảnh cán cân quyền lực toàn cầu đang thay đổi, Mỹ vẫn là cường quốc quân sự vượt trội của thế giới. Tuy nhiên, khả năng đối mặt với nhiều thách thức toàn cầu cùng một lúc đang giảm dần, thể hiện rõ nhất ở Biển Đông, cách Hawaii 8.000 km. Washington quan tâm đến việc làm thế nào để quản lý một Trung Quốc trỗi dậy rất nhanh trong hai thập kỷ qua và ngăn chặn sự xâm lược của Nga ở châu Âu cũng như duy trì sự ổn định ở Trung Đông. Washington cũng phải đối mặt với sự trỗi dậy của miền Nam bán cầu xích lại gần Bắc Kinh hơn một phần do chính sách ngoại giao kinh tế hung hăng của Trung Quốc thông qua thương mại và đầu tư vào các Sáng kiến Vành đai và Con đường.

Bất chấp sự cạnh tranh gây tranh cãi của họ, thế giới sẽ là một nơi tốt đẹp hơn nếu Trung Quốc và Mỹ có thể đạt được một modus vivendi[2] trên phạm vi ảnh hưởng tương ứng của họ trong một môi trường địa chính trị đa cực và giảm các cuộc đối đầu quân sự. Cả hai có thể chôn vùi cái rìu của họ và kêu gọi không tham gia vào các vấn đề quân sự, bao gồm cả việc giảm leo thang xung đột ở Biển Đông, như một cách để giảm thiểu sự nóng lên toàn cầu và quản lý sức khỏe của các đại dương, nơi cung cấp hệ thống hỗ trợ sự sống quan trọng cho nhân loại.

B A H.



[1] Nguyên văn: Zhongshan Islands (quần đảo Trung Sơn), chắc nhầm. Trung Quốc gọi là 中沙大环礁 Trung Sa Đại Hoàn tiêu (BVN)​.

[2] Thành ngữ tiếng latin, nghĩa đen là cách sống. Trong quan hệ quốc tế, thành ngữ này thường được sử dụng để chỉ một thỏa thuận hoặc thỏa thuận cho phép các bên xung đột cùng tồn tại trong hòa bình. (BVN)

This entry was posted in Asia Sentinel, B A Hamzah, Biển Đông. Bookmark the permalink.