RFA
2024.03.02
Một tổng kho của công ty Alibaba (Trung Quốc) tại Hàng Châu, Triết Giang, đang chuyển hàng bằng robot, ngày 14 /9/2018. (Ảnh minh họa). Reuters
Theo thông tin từ “Bạn đường”, một tạp chí của Hiệp hội Vận tải ô tô Việt Nam số ra ngày 22 tháng 2, 2024, Trung Quốc đã và còn tiếp tục xây dựng một loạt các tổng kho khổng lồ chứa hàng hóa dọc theo biên giới Việt Nam. Mục đích của các tổng kho này là giúp Trung Quốc đưa hàng hóa tới Việt Nam thông qua các sàn giao dịch thương mại điện tử với thời gian nhanh nhất, chi phí rẻ nhất. Điều đó chắc hẳn sẽ mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng Việt Nam vì họ có thể mua hàng với giá rẻ, được giao hàng với tốc độ nhanh và chi phí thấp. Nhưng mặt khác, liệu điều này có đem lại tác dụng tiêu cực cho doanh nghiệp Việt Nam hay không? Đằng sau các tổng kho “siêu to khổng lồ” dọc biên giới Việt Trung này còn có vấn đề kinh tế chính trị vĩ mô nào khác hay chỉ đơn thuần là thương mại điện tử? RFA xin ý kiến trao đổi từ một số chuyên gia kinh tế về vấn đề này.
Mục đích đầu tiên của các tổng kho biên giới: Thương mại điện tử
Trao đổi với RFA, Tiến sỹ Kinh tế Nguyễn Huy Vũ ở Na Uy chỉ ra rằng điều đầu tiên Việt Nam cần xem xét là hầu hết các sàn thương mại điện tử của nước này đều có Trung Quốc đầu tư. Ông nói:
“Họ có một chiến lược rất dài hạn. Đầu tiên là họ đầu tư vào các sàn thương mại điện tử. Bước thứ hai là họ xây dựng các tổng kho chứa hàng hóa dọc theo biên giới. Mục đích của các tổng kho này là làm cho việc vận chuyển rẻ hơn để thúc đẩy thương mại điện tử.
Ngoài ra, Việt Nam cũng tăng cường số hóa, phát triển các hoạt động dựa trên chuyển đổi số, cho nên hoạt động thương mại điện tử cũng sẽ càng phát triển trong thời gian tới.
Vì vậy, việc Trung Quốc phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh đó”.
Mặt khác, theo Tiến sỹ Nguyễn Huy Vũ, những cơ sở hạ tầng cho hoạt động thương mại mà Trung Quốc xây dựng dọc theo biên giới Việt Nam không chỉ phục vụ cho việc chinh phục thị trường Việt Nam mà còn để thực thi chiến lược Vành đai Con đường. Trung Quốc muốn sử dụng cảng Hải Phòng để chuyển hàng hóa tới Đông Nam Á nhanh hơn. Ông phân tích:
“Những công ty thương mại điện tử của Trung Quốc đều đã có cổ phần trong các sàn thương mại điện tử ở Đông Nam Á.
Cái đó cũng nằm trong chiến lược chung của họ là bành trướng, khuyếch trương hệ thống thương mại của họ ở Đông Nam Á.
Việt Nam và Trung Quốc cũng đã ký với nhau một hiệp ước kinh tế vào năm ngoái. Điều đó cũng nằm trong chiến lược chung, kết nối kinh tế giữa Trung Quốc với Đông Nam Á”.
Việt Nam: bàn đạp cho Trung Quốc khuyếch trương kinh tế xuống Đông Nam Á
Theo TS. Nguyễn Huy Vũ, Việt Nam đã tham gia vào chiến lược bành trướng kinh tế của Trung Quốc xuống Đông Nam Á. Việt Nam trở thành một bàn đạp phía nam cho Trung Quốc. TS. Nguyễn Huy Vũ chỉ ra điều này bằng cách nhìn vào các động thái phát triển hạ tầng giao thông của Việt Nam:
“Một vấn đề nữa chúng ta cần để ý là Việt Nam và Trung Quốc có sự hợp tác rất lớn trong chiến lược thúc đẩy hoạt động thương mại của Trung Quốc đi Đông Nam Á. Bằng chứng là Việt Nam đã xây dựng một mạng lưới đường cao tốc kết nối Hải Phòng tới biên giới Trung Quốc. Việt Nam cũng có kế hoạch phát triển mạng lưới đường sắt kết nối Trung Quốc với cảng Hải Phòng.
Như vậy Việt Nam trở thành một chặng trung chuyển cho Trung Quốc để phát triển xuống thị trưởng Đông Nam Á”.
Điều đó chắc hẳn đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích vì nhận được đầu tư từ Trung Quốc. Nhưng trong kinh tế, không có gì chỉ có lợi ích một chiều. RFA đặt câu hỏi với TS. Nguyễn Huy Vũ là chính sách đó của Việt Nam liệu có ảnh hưởng tiêu cực nào tới nền kinh tế của nước này trong dài hạn hay không? Ông cho rằng nhìn vào vấn đề vĩ mô thì thấy là Việt Nam đã hoàn toàn mở cửa nền kinh tế. Việt Nam ký kết hiệp ước thương mại với hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế mở. Hai mươi năm nay, Việt Nam theo đuổi chiến lược coi xuất khẩu là động lực cho phát triển. Và điều này đương nhiên có mặt lợi mặt hại của nó. Ông nói tiếp:
“Việc doanh nghiệp trong nước phải đối chọi với nền sản xuất của Trung Quốc thì phải nói đã hiện nay đã quá trễ để bảo hộ thương mại cho doanh nghiệp trong nước. Rất khó để làm điều đó.
Việt Nam phải chấp nhận việc các doanh nghiệp trong nước phải chấp nhận cạnh tranh với Trung Quốc hoặc phải đóng cửa. Đó là một mặt trái của chính sách kinh tế mở, gia nhập toàn cầu hóa của Việt Nam”.
Khi chấp nhận nền kinh tế mở như vậy thì Việt Nam đón dòng đầu tư từ Trung Quốc. Theo TS. Nguyễn Huy Vũ, khi nhìn vào bảng thống kê xuất nhập khẩu Việt Nam – Trung Quốc thì chúng ta thấy Trung Quốc xuất sang Việt Nam hàng điện tử, máy móc, hàng đã qua chế biến. Việt Nam xuất sang Trung Quốc cũng có hàng điện tử, một số mặt hàng công nghiệp. Điều đó cho thấy quan hệ kinh tế hai nước đã rất khăng khít. Ông chỉ ra là các công ty Trung Quốc đầu tư sang Việt Nam thì chọn Việt Nam làm nơi đóng gói, lắp ráp các sản phẩm đã sản xuất chế biến ở Trung Quốc. Như vậy, họ sử dụng nhân công giá rẻ của Việt Nam.
Theo TS. Vũ, cái lợi của việc mở cửa như vậy là Việt Nam dựa vào đầu tư của Trung Quốc để phát triển kinh tế. Còn cái hại là doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh cùng với Trung Quốc. Họ phải chọn một phân khúc thị trường khác để sống còn. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đóng cửa vì không thể cạnh tranh được với hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc.
*
RFA đặt câu hỏi với TS. Nguyễn Huy Vũ là xem xét việc Trung Quốc xây dựng mạng lưới tổng kho dọc biên giới Việt Trung trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ Trung, liệu có thể phán đoán một trong những mục tiêu khác nữa của Trung Quốc là né tránh các đòn trừng phạt kinh tế từ phía Âu Mỹ hay không? Nói cách khác, Trung Quốc muốn mở rộng sản xuất ở Việt Nam, xuất hàng hóa từ Việt Nam vào các thị trường Âu Mỹ. Bằng cách đó, họ né tránh các đòn trừng phạt kinh tế của phía Mỹ. TS. Vũ giải đáp:
“Thực tế là điều đó đã diễn ra rồi. Tôi thấy thương mại hai chiều Việt Trung tăng lên rất mạnh. Khi giá nhân công Trung Quốc tăng lên thì doanh nghiệp Trung Quốc đã sang Việt Nam lắp ráp ở khâu cuối, để tận dụng giá nhân công rẻ hơn. Điều đó đã diễn ra lâu rồi chứ không phải gần đây. Họ lắp ráp ở Việt Nam để chuyển hàng hóa về Trung Quốc một phần và một phần xuất khẩu tiếp đi các nước khác. Trung Quốc đã làm như vậy từ rất lâu rồi.
Gần đây khi căng thẳng thương mại Mỹ Trung lên cao thì Trung Quốc càng tăng cường chiến lược nói trên hơn nữa, tức chuyển sản xuất sang Việt Nam để xuất đi nơi khác. Chuyện đó là chuyện rất bình thường”.
Theo TS. Vũ, có thể đoán là dòng tiền đầu tư của Trung Quốc sẽ sang Việt Nam ồ ạt. Điều đó có thể giúp GDP của Việt Nam sẽ tăng trưởng tốt trong nhiều năm nữa. Trả lời câu hỏi của RFA về một tầm nhìn dài hạn hơn, liệu dòng tiền đầu tư ồ ạt này có gây ra mặt trái gì cho kinh tế Việt Nam, TS Vũ phân tích:
“Việt Nam đã chấp nhận cuộc chơi rồi. Bây giờ hàng hóa giá rẻ Trung Quốc tràn sang. Các mặt hàng công nghiệp, chế biến, máy móc đều rất rẻ. Trung Quốc có lợi thế rất lớn là đông dân nên họ có thể dễ dàng phát triển các ngành công nghiệp của họ và tiến sang Việt Nam.
Việt Nam muốn cạnh tranh thì phải thay đổi. Nếu không có gì thay đổi thì các ngành công nghiệp nhẹ của Việt Nam sẽ dần dần biến mất”.
Kỹ sư Khiêm Nguyễn, một chuyên gia cấp cao về công nghệ và kinh doanh của công ty Voyager Space, một công ty đa quốc gia ở California, Hoa Kỳ, cho rằng Việt Nam có rất nhiều điểm “thắt cổ chai” khiến doanh nghiệp trong nước không thể phát triển được để có thể sống cạnh người khổng lồ phía bắc. Vị chuyên gia đã có hàng chục đợt nghiên cứu về thương mại và công nghệ tại Trung Quốc cho rằng: xét riêng về mặt logistics (tức hậu cần, vận tải), hai điểm nghẽn cản trở doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh được với Trung Quốc là chi phí vận tải và chuỗi cung ứng nguyên liệu sản xuất. Ông cho biết chi phí vận tải ở Việt Nam cao hơn Trung Quốc 30%. Còn về nguyên liệu sản xuất thì nền sản xuất công nghiệp nhẹ của Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn cung từ Trung Quốc.
Trong khi đó, theo Kỹ sư Khiêm Nguyễn, nhà nước Trung Quốc lại có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân rất mạnh mẽ để họ phát triển và cạnh tranh với nước ngoài. So sánh về hoàn cảnh của doanh nghiệp Việt Nam và Trung Quốc trong một hệ thống chính trị giống nhau, Kỹ sư Khiêm Nguyễn nói họ ở hai bối cảnh cảnh khác nhau với hai cách ứng xử khác nhau:
“Nói một câu dân giã thì con bò (RFA chú thích: tức doanh nghiệp) bên Trung Quốc vẫn bị nhốt trong chuồng, nhưng người ta cho ăn. Khi vắt sữa thì vắt sữa có chừng mực để con bò tiếp tục được vỗ béo. Còn con bò ở Việt Nam bị nhốt trong chuồng, không ai quan tâm cho nó ăn, còn vắt sữa thì vắt đến kiệt sức”.
Nguồn: RFA Tiếng Việt