Viết phản biện nhân Ngày Pháp luật

Nguyễn Đình Cống 

1. Vài lời mở đầu

Ngày 9 tháng 11 năm 1946 là ngày ban hành Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, được lấy làm Ngày Pháp luật VN. Đã từng có khá nhiều bài viết về ý nghĩa của ngày này. Pháp luật không những có một ngày để tôn vinh mà việc cải cách tư pháp còn được đặc biệt chú trọng về mặt hình thức. Nhưng theo dõi thực tế thấy rằng pháp luật của Việt Nam đã bị lỏng lẻo ngay từ đầu ở Quốc hội – là cơ quan cao nhất – , đến tòa án và trại tù – là nơi xét xử và thi hành án theo pháp luật.

Ngay từ tháng 5 năm 1950 chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành sắc lệnh số 85 về cải cách tư pháp. Nhưng rồi tháng 7 năm 1960 Bộ Tư pháp bị giải tán, đến tháng 11 năm 1981 mới được thành lập lại. Năm 2005 Trung ương Đảng ra NQ số 48 vào tháng 5 (về hoàn thiện hệ thống tư pháp) và NQ số 49 vào tháng 6 (về chiến lược cải cách tư pháp). Tiếp đến, từ năm 2011 Đảng lập ra Ban chỉ đạo cải cách tư pháp do chủ tịch nước (hoặc quyền chủ tịch) làm trưởng ban. Thành viên ban chỉ đạo thay đổi theo nhiệm kỳ Chủ tịch và có trên mười người. 

Xem qua về hình thức thì thấy chiến lược, các nội dung của cải cách tư pháp,  đặc biệt là quyền tư pháp được viết rất đúng, rất hay. Nhưng viết ra chủ yếu để tuyên truyền, còn trong thực tế thì “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, việc làm ngược lại với văn bản được viết ra.

Tôi xin không viết về những tác dụng tốt đẹp của luật pháp, đặc biệt việc xử các vụ tham nhũng (vì đã có nhiều người viết hay hơn). Tôi cũng không thể phản biện mọi việc liên quan đến pháp  luật, mà chỉ xin nêu ra một vài phản biện và phân tích nguyên nhân.

2Về việc làm luật

Làm luật là một trong các nhiệm vụ chính của Quốc hội (QH). Để làm một luật nào đó thường phải qua các bước: 

(1) Phát hiện sự cần thiết phải làm luật đó; 

(2Tổ chức soạn thảo luật; 

(3) Lấy ý kiến đóng góp của những người quan tâm; 

(4 Thảo luận và thông qua tại QH; 

(5Chủ tịch nưc ký lệnh ban bố. 

Thực tế ở VN trong nhiều năm qua, việc soạn thảo luật chủ yếu do hành pháp làm, bộ chủ quản chuyên môn về lĩnh vực nào thì soạn luật về lĩnh vực đó, QH chỉ làm bước (4). Trong khi đó đúng ra QH có trách nhiệm cả trong việc soạn thảo, nhưng chưa làm được, mà nguyên nhân có thể do trình độ và nhận thức (!).

Riêng bước (1), đáng ra QH phải nhận trách nhiệm chính, nhưng hình như chưa có ai quan tâm, vì vậy có những luật mà dân rất cần như luật lập hội, luật biểu tình, Hiến pháp ghi rõ ràng nhưng dân không thể thực hiện vì QH không chịu ra luật.

Lại nữa, không biết QH thảo luận và thông qua như thế nào, trước khi ký Chủ tịch nước có xem để nếu cần thì chỉnh sửa hay không, mà rất nhiều luật vừa ban hành được ít lâu đã phải sửa đổi. Trong mỗi kỳ họp, QH thông qua một số luật mà phần lớn trong số đó là luật sửa đổi!

3. Về thi hành luật

Thi hành luật quan trọng hơn nhiều việc soạn ra luật, nhưng hình như lãnh đạo nhà nước không nhận ra điều này. Vì vậy đã từng có câu nói khôi hài, phản ảnh một phần sự thật: “Chúng ta có một rừng luật, nhưng chỉ thích dùng một luật rừng”. Trong thực tế thường gặp những công việc đã có luật rõ ràng nhưng người thi hành không chịu vận dụng luật, vì họ một là không cần biết luật mà chỉ làm theo chỉ dẫn của cấp trên, hai là họ có thói quen không làm theo luật mà theo sự hướng dẫn của thông tư, mà thông tư lại phải theo nghị định. Nghị định và thông tư đều là sản phẩm của cơ quan hành pháp, mà phần lớn nội dung của thông tư là nhắc lại nguyên văn của nghị định, phần lớn nội dung nghị định nhắc lại nguyên văn của luật, chỉ có khác nhau về đề mục.

Thói quen phải có thông tư và nghị định giải thích thì luật mới được thi hành đã có từ rất sớm, nó gắn liền với sự lãnh đạo và quản lý xã hội của Đảng Cộng sản Việt nam. Nhiều nước không có thói quen ấy mà luật pháp của họ vẫn được thi hành rất tốt.

Thói quen trong Đảng “cấp dưới hoặc đảng viên làm việc gì phải được sự hướng dẫn của cấp trên” đã hình thành rất sớm, rất phổ biến trong thời kỳ hoạt động bí mật. Có việc đó là do lúc còn bí mật, cơ sở Đảng thường gồm các đảng viên công nông có giác ngộ cao, có tinh thần đấu tranh cách mạng, nhưng lại thiếu tri thức và thông tin, họ gặp khó khăn và thậm chí không biết làm gì khi chưa nhận được những chỉ dẫn cụ thể. Các đảng viên như thế rất sợ làm sai ý của thượng cấp, cho rằng như vậy là vi phạm kỷ luật Đảng. Việc cần có hướng dẫn, không dám tự mình suy nghĩ và quyết định đã trở thành thói quen trong các tổ chức đảng sau này. Hơn nữa đây là yêu cầu “Thống nhất tư tưởng và hành động trong Đảng”. Ngay gần đây, tổng bí thư phải ra hướng dẫn 19 điều đảng viên không được làm cũng phần nào thể hiện thói quen nói trên. 

Thói quen trông chờ hướng dẫn của thượng cấp đã trở thành căn bệnh từ trong gen, trong máu của tổ chức Đảng, nó phát tán và lây lan trong xã hội, trở thành phong tục, tập quán của các cơ quan, của những người thi hành luật pháp. Cũng như nhiều thói quen khác, thói quen này rất khó thay đổi.

Thói quen phải trông chờ thông tư, nghị định mới thi hành luật phát triển đến mức người ta xem thông tư quan trọng hơn luật. Đó là một thói quen xấu, gây ra nhiều lãng phí và trở ngại, cần phải được xóa bỏ. Để làm điều đó cần nâng cao trình độ và trách nhiệm của người soạn thảo cũng như của người thông qua luật, để cho mỗi điều luật đều chính xác, rõ ràng và trong điều khoản thi hành phải ghi  “không cần nghị định và thông tư giải thích”. 

4. Về cải cách tư pháp

Không biết cải cách là cải tiến hay cải lùi, mà bắt đầu từ năm 2011 đến nay đã hơn chục năm mà chẳng thấy việc xử án tiến lên được chút nào. Một số việc sau đây không những là vết nhơ mà còn là nỗi nhục không cách gì rửa sạch của ngành tư pháp.

i- Vụ kết án tử hình oan sai Hồ Duy Hải, và Hội đồng thẩm phán 17 thành viên do chánh án Nguyễn Hòa Bình điều khiển bác bỏ kháng nghị của Viện Kiểm sát. 

ii. Vụ kết án tử hình các con cháu cụ Lê Đình Kình, là những người vô tội.

iii- Các vụ án bỏ tù rất nặng những người bị quy tội lợi dụng quyền tự do dân chủ để hoạt động tôn giáo, truyền bá tư tưởng, hoặc đấu tranh bảo vệ quyền lợi hợp pháp, đó là  những “Tù nhân lương tâm”, họ bị tuyên theo những “bản án bỏ túi” do sự chỉ đạo của  cấp uỷ Đảng, bất chấp công lý.

iv- Sự phát hiện các vụ án oan sai, kết tội tử hình người vô tội, nhà nước phải đền bù nhiều tỷ đồng cho người bị hại (nhưng không sao bù được những tổn thất về tinh thần và sức khỏe cho họ).

Hình như những thẩm phán kết tội oan cho người ta, đến khi nhà nước phải bỏ tiền ra đền bù thì họ vẫn bình chân như vại. Tôi có nhớ một câu được khắc trước cửa tòa án La Mã cổ đại có ý như sau: “Hỡi những người xét xử, nếu xét xử sai cho người ta thì sẽ đến lúc các ngươi bị xét xử”. Không biết ở ta đã có luật nào quy đình hình phạt đối với thm phán, lợi dụng quyền hạn để xét xử sai. Hay là chỉ “quýt làm cam chịu”?

 5Về tạm giam, điều tra, nhà tù

Những việc này ở VN nhà nước giao cho công an, mà sự lộng quyền của họ hình như không có ai ngăn cản. Thỉnh thoảng lại có tin người này người nọ bị chết trong đồn công an khi bị tạm giữ để điều tra. Phần lớn những cái chết oan khuất như vậy đều bị rơi vào im lặng.

Về xét hỏi

Một điều quá nhức nhối mà các bị can kêu oan là bị nhục hình không thể chịu nổi để ép cung khi bị thẩm vấn. Bị can được dụ dỗ rằng người thẩm vấn biết bị can mắc oan, nhưng người thẩm vấn không chịu được nếu không có ai nhận tội khi không thể kéo dài việc xét hỏi. Nếu không nhận tội sẽ bị nhục hình nặng hơn. Cứ tạm nhận để rồi khi ra tòa sẽ kêu oan, tòa sẽ xem xét. 

Đáng lẽ trước tòa, khi bị cáo kêu oan có chứng cứ thì phải tạm hoãn xét xử để điều tra lại, và khi phát hiện ra điều tra viên dùng nhục hình để ép cung thì phải xét xử cả điều tra viên. Nhưng chưa có bao giờ tòa án làm như thế mà còn nối dài sự oan sai. Phải chăng “Oan này chỉ có kêu trời nhưng xa”. 

Về nhà tù

Thường người ta phân biệt hai loại tù nhân: A- Tù thường phạm, mắc tội trộm cướp, đốt phá, giết người v.v., và B- Tù chính trị, mắc tội có tư tưởng chống đối chính quyền, đấu tranh bất bạo động để đòi tự do dân chủ. 

Cả A và B đều mất dân quyền, nhưng không mất nhân quyền. Họ là những người yếu thế nhất, phải được đối xử theo tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp quốc. Hơn nữa, trong khi A còn mất nhiều nhân phẩm thì B thường không những có nhân phẩm cao mà nhiều người trong họ còn là những người yêu nước thương dân, mà theo Hồ Chí Mình thì: “Người ra khỏi tù liền dựng nước” (Ông Nelson Mandela ở Nam Phi là một dẫn chứng). 

Ở các nước dân chủ, với tù chính trị người ta chỉ hạn chế tự do. Còn ở VN, các quản giáo được dạy rằng tù chính trị là bọn kẻ thù giai cấp, cần đàn áp tàn bạo để khi ra khỏi tù chúng nó không thể họat động gì được. Tàn nhẫn thay, độc ác thay chủ trương đối xử vô nhân đạo đối với tù chính trị, mà nhiều người trong số họ được nhân dân gọi là “tù nhân lương tâm”!Ngoài việc tự mình đối xử tàn tệ với tù nhân chính trị, quản giáo còn sử dụng tù thường phạm để hành hạ họ. Thật là độc ác, mất hết tính người.

Không trừng phạt người dùng nhục hình ép cung, không xét xử thẩm phán kết tội oan nạn nhân, không xóa bỏ sự đối xử vô nhân đạo với tù nhân lương tâm thì nền tư pháp sẽ nhanh chóng kéo lùi xã hội về chế độ độc tài tàn bạo thời trung cổ. Phải chăng nền tư pháp hành động như thế là theo một sự chỉ đạo thống nhất từ đâu đó?

Gần đây, ngày 27 tháng 10/2023, Bộ Chính trị Đảng ra Quyết định số 132 về kiểm soát quyền lực trong hoạt động tư pháp. Theo văn bản thì thấy được sự quan tâm của lãnh đạo Đảng, nhưng chưa biết QĐ sẽ được vận dụng vào thực tế như thế nào. Đành chờ xem.

N.Đ.C.

Tác giả gửi BVN

This entry was posted in Luật pháp Việt Nam, Nguyễn Đình Cống. Bookmark the permalink.