Nguyễn Huỳnh
12.06.2023
(VNTB) – Tây Nguyên từ thời đệ nhất cộng hòa cho đến tận hôm nay vẫn luôn có những cơn sóng ngầm về chuyện xung đột đất đai.
Lịch sử xung đột từ bước chân mở cõi
Quốc trưởng Bảo Đại ban hành Dụ số 6, quy định vùng Cao nguyên Trung phần thuộc quyền quản lý của nhà Nguyễn vào ngày 15-4-1950; tuy nhiên vùng đất vẫn do chính phủ Pháp quản lý và kiểm soát giới hạn giao thương Kinh-Thượng.
Nhiều nhà viết sử cho rằng “do sự khác biệt văn hóa và sắc tộc với người Việt, nhiều bộ lạc người Thượng đã hợp tác cùng chính quyền Pháp để chống lại Việt Minh vào thập niên 1940. Người Pháp đã cho phép họ có một mức độ tự trị chính trị ở Tây Nguyên, nhưng sau Hiệp định Genève năm 1954 và việc Pháp rút khỏi Việt Nam, người Thượng đã mất những đặc quyền chính trị đó”.
Kể từ năm 1955, Việt Nam Cộng hòa không luật hóa quyền sở hữu đất tại Cao nguyên Trung phần và bắt đầu thực hiện chương trình tái định cư người Việt đến khu vực này. Trong khi đó thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện chính sách kiểm soát tập thể hóa triệt để ở miền Bắc.
Theo diễn văn ngày 12-6-1955 và Dụ số 57 ngày 22-10-1957, ông Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách bãi bỏ các tòa án phong tục và cấm dạy tiếng thổ ngữ dân tộc cùng với việc phủ nhận quyền sở hữu đất của người Thượng.
Đầu thập niên 1960, có tin nói rằng người Thượng được Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) tuyển dụng và huấn luyện.
Năm 1968, Việt Nam Cộng hòa được cho là tổ chức di dân với gần 100.000 người từ dãy Trường Sơn vào Cao nguyên Trung phần theo chính sách Khai thác miền sơn cước.
Nhiều nhà viết sử cho biết những cuộc xung đột không chỉ liên quan đến tôn giáo, mà còn do “người Việt miền xuôi định cư lấn chiếm đồn điền nông nghiệp của các bộ lạc bản địa”, cũng như “mối liên kết giữa một nhóm Tin Lành tại Hoa Kỳ với một số người Thượng. Nhiều người Thượng đã chiến đấu bên cạnh quân đội Hoa Kỳ và quân lực Việt Nam Cộng hòa trong Chiến tranh Việt Nam, một số người Thượng vẫn tiếp tục kháng cự sau thắng lợi của chính quyền cộng sản vào năm 1975”.
Chính quyền liên bang Hoa Kỳ chỉ thừa nhận người Thượng là người tị nạn chính trị từ năm 1986, với khoảng 5.000 người Thượng được tái định cư tại North Carolina kể từ năm 1975. Theo đó, nhiều tổ chức nhân quyền ghi nhận nhiều cựu binh người Thượng tại Tây Nguyên trải qua nhiều năm trong các trại lao động cải tạo hậu chiến tồi tàn, và tiếp tục bị chính phủ Hà Nội bức hại.
Đất đai bị thu hồi
Một tài liệu nội bộ của Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, đưa những số liệu phân tích như sau khiến bạo loạn luôn là âm ỉ cho ngày nào đó bùng nổ:
“Ở Tây Nguyên, việc đền bù giải phóng mặt bằng để xây dựng đường dây truyền tải điện chỉ đạt từ 50 đến 70% giá trị thực, trong đó bồi thường rừng, hoa màu trên đất mang tính cào bằng khiến cho người dân thiệt thòi, bức xúc. Những chậm trễ, sai phạm trong quá trình giải phóng mặt bằng lại chưa có chế tài để quy trách nhiệm. Vì vậy, quyền lợi của người dân bị thiệt thòi mà tiến độ dự án cũng khó đảm bảo.
Tại Kon Tum, tuyến kết nối từ đường Hồ Chí Minh đi quốc lộ 24 và tuyến tránh đường Hồ Chí Minh qua thành phố Kon Tum là hai dự án giao thông trọng điểm của tỉnh Kon Tum trong năm 2018.
Hiện cả hai dự án này đều chưa thể khởi công xây dựng do công tác lập phương án đền bù giải phóng mặt bằng có nhiều sai phạm. Điển hình là việc cán bộ lập phương án đền bù với “giá trên trời”, có biểu hiện trục lợi, móc nối chuyển nhượng đất đai, tác động vào việc không công nhận giá đất đích thực tạo ra điểm nóng trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng.
Sự việc nghiêm trọng đến mức tháng 9-2020, Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum phải chấm dứt hiệu lực quyết định phê duyệt giá đất, dừng phương án bồi thường để thực hiện lại.
Tình trạng du canh, du cư tự do, đốt rừng ở Tây nguyên rất phức tạp.
Một mặt, phương thức quản lý đất đai của các tộc người thiểu số Tây nguyên theo sở hữu cộng đồng, là đặc trưng của chế độ mẫu hệ. Chế độ mẫu hệ cản trở quá trình tham gia bình đẳng của người đàn ông vào các quá trình kinh tế, gây khó khăn cho việc thực hiện pháp luật trong vận hành nền kinh tế ở Tây Nguyên.
Mặt khác, việc đổi mới cơ chế quản lý chuyển đổi sang mô hình các công ty nông, lâm nghiệp (từ năm 2003) vẫn mang tính hình thức, chưa tách biệt rõ ràng giữa chức năng kinh tế với chức năng hành chính.
Hiện nay, nhiều nông, lâm trường, công ty từ chối nhận thêm đất hoặc vì không đủ năng lực sản xuất, hoặc vì chưa thể hoàn chỉnh được hồ sơ để làm thủ tục giao đất, thuê đất, cấp mới, cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. Vì vậy, một diện tích không nhỏ đất đai còn để hoang hóa, trong khi nhiều người dân đang thiếu đất sản xuất.
Tình trạng yếu kém về quản lý đất đai ở Tây Nguyên là nguyên nhân chủ yếu làm cho nguy cơ xung đột xã hội tăng lên.
Với quỹ đất có hạn, nhu cầu sử dụng đất cho phát triển kinh tế – xã hội tăng nhanh, việc thiếu một cơ chế quản lý đúng đắn làm cho giá đất thực và giá đất ảo tăng cao. Trong bối cảnh đó, việc đền bù, thu hồi đất ở nhiều nơi không minh bạch, thiếu hợp lý, không công bằng, tình trạng tham nhũng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai, giải quyết đền bù… đã tạo ra những mâu thuẫn, xung đột, tranh chấp đất đai gay gắt hơn giữa các nhóm dân cư, hoặc giữa nhân dân và chính quyền.
Từ sau năm 1975 đến nay, những vụ tranh chấp đất đai lớn nhỏ ở Tây nguyên có thể lên đến hàng ngàn vụ. Khiếu nại về đất đai chiếm đến 95% số đơn khiếu nại…” (dừng trích).
Khuyến nghị về chính sách
Độ che phủ của rừng ở Tây nguyên hiện nay chỉ còn dưới 50%; lượng nước ngầm trong đất trở nên cạn kiệt, lượng nước tưới giảm, suy giảm thảm thực vật, ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng cây trồng. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người sản xuất, mà trước hết là các tộc người thiểu số.
Người dân Tây nguyên bị “nghèo” đi trong nền “kinh tế rừng” truyền thống, trong lúc chưa có sinh kế thay thế hiệu quả, chưa thể và chưa có điều kiện để thích nghi hoặc chuyển sang nền sản xuất hiện đại.
Hiện nay, theo số liệu thì ở Tây Nguyên, đồng bào các tộc người thiểu số còn 326.909 hộ, trong đó có 32.975 hộ thiếu đất ở, 293.934 hộ thiếu đất sản xuất cần được hỗ trợ.
Từ thực trạng và thách thức trên cho thấy việc đảm bảo nhu cầu đất sản xuất, nhất là quyền quản lý sử dụng rừng và đất rừng cho hộ gia đình và không gian văn hóa rừng cho cộng đồng là vấn đề đặc biệt quan trọng.
Cơ cấu xã hội – tộc người, văn hóa truyền thống và tập quán sản xuất của mỗi cộng đồng tộc người ở Tây Nguyên đều gắn bó mật thiết với rừng. Việc đảm bảo “không gian sinh tồn”, không gian văn hóa gắn với rừng và đất rừng cho cộng đồng để bà con không “thiếu đất” sản xuất là điều kiện tiên quyết cho quản lý xung đột xã hội và sự phát triển bền vững Tây Nguyên.
Nhà nước với tư cách là người đại diện cho chủ sở hữu toàn dân về đất đai ở Tây nguyên là một chủ thể phức hợp bao gồm các cơ quan quyền lực nhà nước từ Trung ương đến cấp xã… Các chủ thể này, cho đến nay vẫn chưa được quy định rõ quy mô, hình thức, tính chất sử dụng đất đai nói chung và ở Tây nguyên nói riêng.
N.H.
VNTB gửi BVN