Ngô Nhân Dụng
Xin giới thiệu dự phóng của học giả Ngô Nhân Dụng về cách nhìn của con cháu người Việt 100 năm sau ngày 30-4-1975 đối với thời điểm lịch sử khó quên này. Cũng rất mong quý bạn đọc cung cấp cho BVN thêm nhiều sự dự phóng khác, ngõ hầu cuối cùng có thể tìm ra một mẫu số chung giúp chúng ta hình dung diện mạo của xã hội Việt Nam vào những thập niên cuối thế kỷ XXI tương đối gần sự thật, vì xét cho cùng, đi tìm hình bóng quá khứ cũng chính là nhằm phác họa một viễn cảnh sẽ dẫn tới trong tương lai chứ không có gì khác. |
Người học lịch sử sau này sẽ tự hỏi tại sao chế độ đó không sụp đổ nhanh hơn, theo sau các nước ở Đông Âu và Nga, để dân Việt Nam được sống tự do sớm hơn, có cơ hội phát triển kinh tế và văn hóa nhanh hơn?
Ký giả này đã nhiều lần tự hỏi một cuốn lịch sử Việt Nam in năm 2075 sẽ nói gì về ngày 30 tháng Tư trước đó 100 năm?
Nhà viết sử sẽ ghi nhận 30 tháng Tư năm 1975 là ngày cuộc nội chiến đã chấm dứt giết chết hai triệu người Việt. Sau đó ba, bốn trăm ngàn người Việt đã vùi xác trên Biển Đông khi tìm đường chạy trốn một chế độ độc tài khắc nghiệt. Sách có thể ghi chú rằng dân số cả nước lúc đó khoảng 35 triệu.
Các sử gia sẽ so sánh: Cuộc Trịnh – Nguyễn phân tranh vào thế kỷ 17, 18 là do hai dòng họ các tướng quân tranh quyền, chiến tranh kéo dài đến vài trăm năm. Cuộc nội chiến thế kỷ 20 không lâu như lần trước, chỉ có 16 năm, từ tháng Năm năm 1959, khi toán quân Bắc Việt đầu tiên theo đường Trường Sơn xâm nhập miền Nam. Nhưng số người chết cao gấp mấy chục lần.
Chắc các nhà viết sử sẽ phải nhìn rộng hơn để tìm hiểu cái gì gây nên cuộc nội chiến thứ nhì này? Tìm đến gốc thì đó là một phần trong lịch sử của cả loài người, cái gọi là “Chiến tranh Lạnh” giữa hai khối tư bản và cộng sản. Gốc rễ bắt đầu là phương thức kinh tế tư bản phát triển vào thế kỷ 18 ở Âu châu, đưa tới một phản ứng là lý thuyết Mác xít. Từ đó, có cuộc cách mạng năm 1917 thành lập một chế độ cộng sản ở nước Nga. Rồi thế giới chia hai, nhiều quốc gia cũng bị cắt đôi theo hai ý thức hệ.
Trong lịch sử Việt Nam thì cuộc nội chiến chấm dứt năm 1975 chỉ là một đoạn trong một cuộc tranh chấp lâu dài hơn giữa hai chủ trương lập quốc sau khi thoát nạn thực dân. Một bên là những người muốn đưa nước ta vào làm một thành phần, một đội quân đi hàng đầu trong mặt trận quốc tế do Liên Xô lãnh đạo. Bên kia là những người chủ trương lấy dân tộc làm mục đích chính yếu, liên kết với các nước chống lại Nga Xô. Một bên muốn thiết lập chế độ chuyên chính của đảng cộng sản, tổ chức kinh tế theo lối hoạch định tập trung. Bên kia muốn tùy nghi học hỏi theo kinh nghiệm các chế độ chính trị tự do dân chủ, với hệ thống kinh tế thị trường, cũng gọi là kinh tế tư bản, có thể tùy nghi lựa chọn vì ở mỗi nước mỗi khác.
Nhưng không phải bất cứ một nước Á và Phi châu nào cũng trở thành bãi chiến trường cho hai khối cộng sản và tư bản tranh hùng giết hàng triệu người, như ở Việt Nam. Ấn Độ không, Thái Lan không, các cựu thuộc địa như Philippines, Malaysia, Indonesia v.v. cũng không lâm cảnh tương tàn bi thảm như nước mình. Những nước đã bị chia đôi như Đức, Hàn Quốc sau năm 1954, cũng không bị cảnh nội chiến kéo dài như ở Việt Nam. Có phải các quốc gia này tình cờ, gặp may mắn hay chăng? Hay là giới lãnh đạo ở các nước đó khôn ngoan hơn người Việt?
Vì vậy Việt Nam là một trường hợp đặc biệt, và rất đáng thương. Sự kiện đầu tiên đẫn tới cuộc nội chiến là ông Hồ Chí Minh lập Đảng Cộng sản Việt Nam, nhắm mục đích đưa người Việt vào chủ nghĩa cộng sản, một tín ngưỡng duy vật. Ông theo đường lối Stalin bên Moskva, muốn dùng phong trào Cộng sản Quốc tế mở rộng ảnh hưởng của Nga ra khắp thế giới.
Lúc Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (sau bị Stalin bắt đổi tên là Đảng Cộng sản Đông Dương), nước Việt Nam đang bị người Pháp cai trị và bóc lột. Người Việt Nam đã nổi lên chống Pháp suốt từ cuối thế kỷ 19. Tất cả mọi người Việt Nam yêu nước đều chống Pháp. Tất cả đều mong đuổi người Pháp đi, xây dựng một nước Việt Nam độc lập. Những chiến sĩ bị người Pháp hành quyết trong năm đó là 13 liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Các nhà cách mạng đều muốn nước Việt Nam sau khi độc lập sẽ theo một chế độ dân chủ, tự do giống như thể chế của nước Pháp sau các cuộc cách mạng 1789 và nước Trung Hoa từ năm 1911.
Ông Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam nghĩ khác. Họ nêu chủ trương rõ rệt là sau khi được độc lập thì sẽ thiết lập ở nước ta một chế độ theo kiểu của Stalin gọi là “vô sản chuyên chính.” Họ nhắm biến Việt Nam thành một phần của mặt trận vô sản thế giới chống chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Theo ông Stalin, các khái niệm về quốc gia, về tổ quốc là các tư tưởng lạc hậu.
Những người nghiên cứu có thể thấy rõ ý nguyện của Hồ Chí Minh trong báo Thanh niên do ông xuất bản ở Quảng Châu. Ngày 18 tháng Mười năm 1925 báo này in trên tiêu đề khẩu hiệu: “Vô sản toàn thế giới, hãy đoàn kết lại!” Đó là kết luận của bản Tuyên ngôn Cộng sản, do hai nhà triết học Đức, Karl Marx và Friedrich Engels viết vào tháng Hai năm 1848. Câu này vẫn còn trên bia mộ của Karl Marx ở nghĩa trang Highgate, London.
Ngày 20 tháng 12 năm 1926 ông Hồ viết trên báo Thanh niên: “Cái danh từ tổ quốc là do các chính trị gia đặt ra để đè đầu nhân dân… để buộc những người vô sản phải cầm vũ khí bảo vệ tài sản của địa chủ và quyền lợi của giai cấp tư sản. Thực ra, chẳng có tổ quốc, cũng chẳng có biên giới”. Không có quốc gia, không có tổ quốc, đó là quan điểm rõ rệt của ông Hồ Chí Minh.
Đảng Cộng sản ra đời năm 1930 đặt cho phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước một ngã rẽ: Phải lựa chọn giữa khuynh hướng quốc gia, dân tộc và một chủ nghĩa quốc tế.
Ông Hồ Chí Minh đã chọn đường lối quốc tế, sau khi “hãnh diện đã được giác ngộ” ở Pháp, rồi được huấn luyện các kỹ thuật nghề gián điệp, tuyên truyền, ở Moskva. Nhiều nhà cách mạng Việt Nam không đồng ý, họ chỉ nhắm mục tiêu giành độc lập dân tộc.
Từ đó, ở nước ta có hai xu hướng chính trị đối nghịch, quốc gia và quốc tế, mối xung đột càng ngày càng nặng nề. Khi thế giới chia ra hai khối theo ý thức hệ tư bản và cộng sản, Việt Nam cũng chia làm hai, giống ở Đức và Hàn Quốc. Vì vậy nước ta trở thành chiến địa cho hai thế lực quốc tế, làm nơi thí nghiệm các loại vũ khí của Nga Xô và Mỹ.
Các nước Indonesia, Malaysia, Philippines… không lâm cảnh tương tàn vì họ không có những đảng cộng sản trung kiên và tàn bạo như ở Việt Nam. Những nhà cách mạng xu hướng quốc gia ở các nước này không bị Cộng sản sát hại trước khi bắt đầu cuộc tranh đấu vũ trang đòi độc lập. Ở Việt Nam thì Đảng Cộng sản lo thanh toán tất cả những lãnh tụ quốc gia có uy tín, như Trương Tử Anh, Lý Đông A, Huỳnh Phú Sổ v.v. trước khi đánh nhau với Pháp. Hồ Chí Minh cũng theo đúng chỉ đạo của Stalin, sát hại những chiến sĩ Đệ Tứ Quốc tế như Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu… Đảng Cộng sản thành công vì họ dám vứt bỏ đạo lý, bất chấp các quy tắc pháp luật, nói lời gian trá không ngượng miệng, giết người không ghê tay.
Các nhà viết sử sau này có thể ghi nhận 30 tháng Tư năm 1975 cũng là ngày bắt đầu giai đoạn suy yếu của chủ nghĩa Cộng sản ở Việt Nam. Khi chiến tranh chấm dứt, người dân có dịp so sánh hai chế độ ở miền Nam và miền Bắc. Nhiều nhà trí thức nhìn thấy những dấu vết của một xã hội tự do tương đối ở miền Nam, dễ thở hơn so với miền Bắc. Đảng Cộng sản để lộ bộ mặt thật, là một guồng máy cai trị bằng công an, độc tài, tham nhũng, bất lực trước vấn đề hiện đại hóa đất nước. Cộng sản Việt Nam khó biện minh cho các chính sách chuyên chế, tàn bạo như cũ, phải thay đổi.
Đến những năm 1980 thì Đảng Cộng sản Việt Nam quay đầu ngược lại, cũng chập chững đi theo kinh tế tư bản như khi họ bắt đầu phát triển hồi thế kỷ 19. Cảnh sụp đổ của các nước cộng sản ở Âu châu càng giúp người Việt thấy rõ những nhược điểm của guồng máy cai trị mà ông Hồ Chí Minh đã gây dựng lên theo kiểu mẫu ông học ở Nga Xô.
Người học lịch sử sau này sẽ tự hỏi tại sao chế độ đó không sụp đổ nhanh hơn, theo sau các nước ở Đông Âu và Nga, để dân Việt Nam được sống tự do sớm hơn, có cơ hội phát triển kinh tế và văn hóa nhanh hơn? Vì một guồng máy chuyên chính, độc quyền rất khó thay đổi. Những người nắm quyền trong tay sẽ không bao giờ muốn bị giảm bớt, đừng nói đến bị mất quyền. Hệ thống công an được nuôi dưỡng để bảo vệ quyền hành cho các đảng viên, họ nói thẳng rằng “Đảng Còn thì Mình Còn”. Hệ thống kiểm soát các nguồn thông tin khiến người dân chỉ còn biết lo nhu cầu “cơm áo gạo tiền”, không nghĩ tới ước vọng nào cao hơn. Nếu nới lỏng hai gọng cùm kiểm soát này, dân Việt nếm mùi rồi đòi thêm tự do thì các đảng viên sẽ mất hết ưu quyền, không thể ngồi trên đầu dân mãi được.
Đến năm 2075 người Việt đọc lịch sử nước mình sẽ thấy Việt Nam đã bỏ lỡ nhiều cơ hội, thật đáng tiếc. Giữa thế kỷ 19 khi bắt đầu tiếp xúc với Tây phương, nếu chính quyền nhà Nguyễn biết canh tân đất nước, thì chắc nước mình đã khá, nếu không tiến nhanh bằng Nhật Bản thì cũng phải theo kịp Thái Lan. Vào cuối thế kỷ thứ 20 nếu chế độ cai trị thay đổi toàn diện và nhanh chóng sau năm 1990 thì chắc nước Việt Nam không đến nỗi thua kém các nước lân bang như Malaysia, Phillipines, Singapore… Nếu Việt Nam Cộng hòa vẫn tồn tại thì bây giờ cũng có thể tiến gần bằng Đại Hàn Dân Quốc hay Đài Loan. Sẽ không đến nỗi người dân hãnh diện kiếm được tiền nhờ làm công nhân lắp ráp trong cơ xưởng của Sam Sung hay Foxconn, mà khi họ cần đến một cây đinh ốc mình cũng không cung cấp được.
Một bài học kinh nghiệm mà người Việt Nam năm 2075 có thể nghĩ ra là đừng bao giờ chấp nhận sống dưới một chế độ độc tài. Nhất là một chế độ dựa trên một hệ thống tư tưởng giáo điều, hủ lậu, cố chấp, mà các vua quan cộng sản còn tham những gấp vạn lần vua quan thời phong kiến.
N.N.D.
Nguồn: VOA Tiếng Việt