Ba nhiệm vụ chính trị mà đảng giao cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Văn Tâm

Trở thành công cụ chính trị là đi đến bước đường suy vong.

March 3, 2023

Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp các đại biểu lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam, chiều 29/11/2022. Ảnh: TTXVN

Một số tổ chức tôn giáo hiện nay đã bị chính quyền thâm nhập hoàn toàn. Các chức sắc không chỉ điều hành hoạt động tôn giáo mà còn thực hiện những nhiệm vụ chính trị của đảng. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) là một trong những tổ chức tôn giáo như thế.

Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IX vào tháng 11/2022, đại diện Ban trị sự GHPGVN tỉnh Kiên Giang đã phát biểu: “Đối ngoại Nhân dân mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam thực hiện, theo nhiệm vụ chung là triển khai đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng”. [1]

Sau hơn 40 năm thành lập, GHPGVN đã trở thành tổ chức nửa tôn giáo nửa chính trị – vừa hoạt động tôn giáo vừa thực hiện những nhiệm vụ chính trị mà Đảng Cộng sản Việt Nam giao phó.

Đối ngoại theo đường lối của đảng

Vào năm 2018, Ban điều phối của GHPGVN tại Lào chính thức ra mắt trong một buổi lễ. Điều đáng chú ý là không chỉ có các nhà sư cao cấp của giáo hội trong buổi lễ này mà còn có đại diện Cục An ninh Nội địa (Bộ Công an), hai cán bộ Ban Tôn giáo Chính phủ, và hai cán bộ lãnh đạo của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [2].

Đến năm 2019, Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ Vũ Chiến Thắng trong chuyến làm việc tại Campuchia đã đề nghị xem xét thành lập Ban điều phối Phật giáo Việt Nam và xây dựng thánh thất Cao Đài tại nước này. Ông Thắng phát biểu như một chức sắc của GHPGVN dù đoàn làm việc của ông không có một nhà sư Việt Nam nào [3].

Những ví dụ này cho thấy có sự chỉ đạo, can thiệp trực tiếp của chính quyền đối với những hoạt động của giáo hội ở nước ngoài.

Ban Tôn giáo Chính phủ làm việc tại Campuchia, năm 2019. Ảnh: Ban Tôn giáo Chính phủ

Bài tham luận của Ban trị sự GHPGVN tỉnh Kiên Giang cho biết hoạt động ngoại giao nhân dân của giáo hội không chỉ do các chức sắc của giáo hội và Ban Phật giáo quốc tế Trung ương đảm nhận mà còn là trách nhiệm chung của “toàn thể Giáo hội và các hội, đoàn, cá nhân yêu mến đạo Phật”.

GHPGVN hiện nay có thể nói là đang minh họa sát sao cho đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiều hoạt động của GHPGVN không còn thuần túy là hoạt động tôn giáo nữa.

Vào tháng 10/2022, Thượng tọa Thích Đức Thiện khẳng định những hoạt động của GHPGVN như Đại lễ Phật đản (Vesak) Liên Hiệp Quốc “là những phản bác mạnh mẽ nhất trước những báo cáo sai sự thật, bôi nhọ xuyên tạc nhân quyền, tự do tôn giáo ở Việt Nam của các thế lực thù địch” [4].

Những nhà sư của GHPGVN giờ đây không chỉ tu hành mà còn đang hoạt động như một cán bộ ngoại giao không chính thức của nhà nước.

Thâm nhập vào các cộng đồng người Việt ở hải ngoại

Vào tháng 11/2020, Ban Tôn giáo Chính phủ đã ký kết một thỏa thuận về tôn giáo với Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài [5].

5 tháng trước khi ký thỏa thuận này, trong lúc làm việc với Ban Tôn giáo Chính phủ, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài Đặng Minh Khôi đã nhấn mạnh về việc các thế lực thù địch ở nước ngoài lợi dụng vấn đề tôn giáo, lôi kéo tổ chức tôn giáo trong nước chống phá chính quyền.

Và trong thỏa thuận hợp tác giữa hai cơ quan này có nhiệm vụ thành lập các tổ chức tôn giáo dành cho người Việt ở hải ngoại.

Phật giáo có lẽ là tôn giáo thu hút đông đảo tín đồ người Việt ở hải ngoại. GHPGVN hiện nay rất chú trọng việc thành lập các cơ sở ở hải ngoại. Hiện nay, giáo hội đã thành lập 22 hội Phật tử Việt Nam ở các quốc gia tại nhiều châu lục, thiết lập “mối liên lạc thường xuyên hướng dẫn” tăng ni, Phật tử ở 35 quốc gia và vùng lãnh thổ [6]. Các hội Phật tử, trung tâm văn hóa Phật giáo ở hải ngoại được xem là trung tâm đoàn kết, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, nơi giao lưu, chia sẻ, hỗ trợ cộng đồng, quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Rõ ràng, các hoạt động nói trên phản ánh nhiệm vụ ngoại giao nhân dân mà giáo hội đang thực hiện theo định hướng của đảng.

Thượng tọa Thích Thọ Lạc, Trưởng ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam trao tặng quà lưu niệm cho Đại sứ Việt Nam tại Bỉ. Ảnh: TTXVN

Ông Nguyễn Đình Thắng, Giám đốc tổ chức nhân quyền BPSOS có trụ sở tại Mỹ, một trong những tổ chức bị chính quyền Việt Nam cho là lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo để chống phá nhà nước, nói với Luật Khoa rằng chính quyền Việt Nam vẫn đang dùng Phật giáo và đạo Cao Đài để thâm nhập vào cộng động người Việt tại Mỹ [7].

“Một chùa Phật giáo có thể bảo lãnh dăm người; sau vài năm số người này bỏ ra ngoài, lập chùa mới và mỗi chùa lại bảo lãnh dăm người nữa”, ông Thắng cho biết. Việc thâm nhập này, theo ông Thắng, là để thực hiện Nghị quyết 36/NQ-TW của đảng.

Nghị quyết 36 được Bộ Chính trị ban hành năm 2004. Nghị quyết này có nhắc đến việc phải hạn chế được việc các thế lực tìm cách chia rẽ cộng đồng người Việt Nam, chống phá chính quyền Việt Nam, phá hoại mối quan hệ giữa nước sở tại với Việt Nam.

Tháng 4/2022, một phái đoàn của GHPGVN đã sang châu Âu và đến làm việc với Đại sứ quán Việt Nam tại Bỉ. Thượng tọa Thích Thọ Lạc, trưởng phái đoàn, cho biết giáo hội sẽ tiếp tục việc lan tỏa văn hóa Phật giáo, mở lớp dạy tiếng Việt để bảo tồn bản sắc văn hóa trong cộng đồng người Việt tại Bỉ. Những phát biểu này rất giống với chủ trương và phương hướng công tác được nêu trong Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị [8].

Định hướng người dân trong nước

Trong văn kiện Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IX, bên cạnh những hoạt động tôn giáo, GHPGVN đã công khai xác định cho mình những nhiệm vụ rất phi tôn giáo [9].

Phương hướng hoạt động nổi bật mà văn kiện nêu ra là vận động tăng ni, Phật tử “phát huy tinh thần yêu nước, tích cực xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc”, và “tích cực tham gia các đoàn thể xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”.

“Đại đoàn kết dân tộc” có thể diễn giải thông qua các hành động như tuân thủ quy định pháp luật, không có những hành vi bị cho là chia rẽ và chống phá nhà nước, phải làm theo mong muốn của chính quyền, tích cực ủng hộ và tham gia vào các hoạt động có tính đoàn thể được chính quyền dẫn dắt. Ví dụ, những nhà sư muốn duy trì Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, vốn đã có từ trước năm 1975, bị cho là “phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”, vì đi ngược lại chủ trương của nhà nước [10].

Các đoàn thể xã hội thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có thể xem là những tổ chức đóng vai trò theo dõi, giám sát người dân. Năm 2021, nhà nước đã công khai rằng một số hội như Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh có nhiệm vụ là bí mật theo dõi, báo cáo cho chính quyền những hoạt động tôn giáo đáng nghi ngờ tại cơ sở [11].

Trong bài viết năm 2022, Hòa thượng Thích Thiện Nhơn, đương kim Chủ tịch Hội đồng Trị sự của GHPGVN, cho biết phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” ngày càng thể hiện “tính đúng đắn và hiệu quả”. Từ đó, Giáo hội luôn cổ vũ tăng ni, Phật tử chấp hành chủ trương, chính sách, pháp luật của nhà nước, tích cực tham gia các công tác của chính quyền địa phương, các phong trào của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [12].

Như vậy, từ sau khi GHPGVN được thành lập vào năm 1981, các nhà sư của giáo hội dần dần đã trở thành công cụ để chính quyền sử dụng trong các hoạt động ngoại giao, kiểm soát người dân cả trong nước và hải ngoại.

Vì sao không nên kiểm soát tôn giáo bằng chính trị?

Kiểm soát các tổ chức tôn giáo không phải là câu chuyện riêng của Việt Nam. Vấn đề này thường xảy ra trong các chế độ độc tài. Chính quyền độc tài thường tìm kiếm sự ủng hộ của các chức sắc tôn giáo. Chức sắc tôn giáo là những người có nhiều uy tín, có tiếng nói đáng kể đối với các tín đồ. Sự ủng hộ của các chức sắc là cách nhanh chóng, bền vững nhất để giúp chế độ kiểm soát người dân.

Quốc dân đảng dưới thời Thiết quân luật đã sử dụng Hiệp hội Phật giáo Trung Hoa Dân Quốc để kiểm soát Phật tử. Giống như GHPGVN, hiệp hội này cũng là tổ chức Phật giáo duy nhất chính quyền Quốc dân đảng cho phép thành lập khi đó. Cho đến cuối thập niên 1990, hiệp hội này dần dần bị mất uy tín sau khi các hiệp hội Phật giáo mới được phép tự do hoạt động [13].

Việc kiểm soát tổ chức tôn giáo thường chỉ mang đến lợi ích cho chế độ độc tài nhưng lại mang đến nhiều tai hại khác.

Trung Quốc là trường hợp có cách thức kiểm soát Phật giáo tương tự, và duy trì cho đến tận ngày nay. Phật giáo cũng được sử dụng như một công cụ chính trị của chính quyền. Càng ngày càng có nhiều chức sắc Phật giáo kế thừa ở Trung Quốc yếu đuối trước quyền lực của chính quyền, và trở thành những nhà sư tha hóa, biến chất.

Phật giáo tại Đài Loan chỉ phát triển khi chính quyền bãi bỏ đặc quyền hoạt động của Hiệp hội Phật giáo Trung Hoa Dân Quốc, tạo điều kiện giải phóng tiềm lực cho các tổ chức Phật giáo khác. Nhờ vậy, Phật giáo Đài Loan trở thành một trong những nền Phật giáo có ảnh hưởng trên thế giới với các tăng, ni sư danh tiếng.

Trước năm 1975, việc thống nhất Phật giáo, điều hành toàn bộ hoạt động Phật sự thông qua một tổ chức duy nhất là khát vọng của một số nhà sư, trong đó có Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Tuy nhiên, khi trở về nước vào những năm 2000, thiền sư Nhất Hạnh đã bày tỏ sự thất vọng rất lớn đối với GHPGVN vì bị chính quyền kiểm soát [14].

Còn Hòa thượng Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch Hội đồng trị sự GHPGVN thì cho rằng việc ra đời của GHPGVN là “nét son vàng trên trang sử Phật giáo nước nhà thời hiện đại”.

Phật giáo ở các nước tự do như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan đã chứng tỏ rằng tự do tôn giáo, tự do thành lập các tổ chức Phật giáo khác nhau mới là cách đưa đạo Phật phát triển. Việc kìm kẹp Phật giáo dưới một tổ chức duy nhất là con đường khiến tôn giáo này suy vong.

V.T.

Nguồn: Luật Khoa Tạp chí

This entry was posted in Giáo hội Phật giáo, Phật giáo Việt Nam. Bookmark the permalink.