Sử gia Harari: Hướng đi của nhân loại đang được quyết định tại Ukraina

Sử gia Yuval Noah Harari. Sử gia Yuval Noah Harari. © wikipedia

Trọng Thành

Những tuần lễ đầu tiên của năm 2022, khi đại dịch Covid-19 có phần tạm lắng sau 2 năm hoành hành, nhân loại lại đứng trước một đe dọa lớn mới đáng sợ hơn bội phần : Chiến tranh. Nguy cơ nước Ukraina bị xâm lăng không chỉ là đại họa với người dân của riêng quốc gia này cùng những khu vực xung quanh, mà còn đe dọa toàn bộ thành tựu của thế giới từ hơn nửa thế kỷ qua : Nền hòa bình.

Đối với sử gia nổi tiếng người Israel, Yuval Noah Harari(*), « thành tựu chính trị lớn nhất » của nhân loại trong bảy thập niên qua là « tình trạng suy tàn của chiến tranh ». Chiến tranh, chinh phạt, xâm chiếm lãnh thổ, cướp bóc tài nguyên, lấy bạo lực để bảo đảm vị thế, sự thịnh vượng, bảo đảm vinh quang, vốn từng là hoạt động hết sức phổ biến trong lịch sử nhân loại hàng ngàn năm nay. Luật Rừng, nơi mạnh được yếu thua, đã từng là nguyên tắc chủ yếu chi phối lịch sử nhân loại trong một thời gian dài. Tuy nhiên, theo sử gia Harari, trong vòng một vài thế hệ gần đây, thế giới đã chuyển sang một hướng đi hoàn toàn khác, một thay đổi triệt để. Cụ thể là một bộ phận lớn của giới tinh hoa lãnh đạo thế giới hiện nay tin tưởng là chiến tranh là « cái ác có thể tránh được ».

Cho dù chiến tranh vẫn tiếp diễn giữa một số quốc gia, trong nội bộ một số quốc gia, nhưng xu thế chung của giai đoạn lịch sử hơn nửa thế kỷ qua là nền hòa bình đã trở thành tình trạng phổ biến, và chiến tranh xâm lược ngày càng trở nên chuyện gần như không thể. Theo tác giả, « sự suy tàn của chiến tranh » không phải là kết quả của một phép màu hay sự thay đổi của các quy luật mang tính tự nhiên, mà chính là do sự lựa chọn của con người.

Yuval Noah Harari sống tại Trung Đông, một khu vực mà bạo lực chiến tranh xảy ra khá thường xuyên. Tác giả phân biệt những gì là « ngoại lệ » với xu thế chung. Theo tác giả, « nền hòa bình mới » là điều chưa từng có với nhân loại. Chiến tranh xâm lược khó xảy ra hơn hiện nay khi tri thức đã trở thành « nguồn lực chủ yếu tạo ra của cải », chứ không còn là tài nguyên thiên nhiên như trước đây. Giờ đây, bạo lực do chiến tranh khiến ít người chết hơn là tai nạn giao thông hay bệnh béo phì. Chi phí cho giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội nhiều hơn hẳn ngân sách cho vũ trang, vốn chiếm tỉ lệ lớn nhất trong ngân sách của giới cầm quyền các thời kỳ lịch sử trước đây.

Yuval Noah Harari nhấn mạnh là « nền hòa bình mới » chưa từng có với nhân loại đang bị đe dọa: « Sự trỗi dậy của vũ khí mạng, các nền kinh tế do trí tuệ nhân tạo điều khiển và việc tái quân sự hóa nền văn hóa của chúng ta có thể mở ra một kỷ nguyên chiến tranh mới, tồi tệ hơn rất nhiều so với bất kỳ điều gì chúng ta từng biết trước đây ». Theo ông, hướng đi của nhân loại sẽ bị đảo chiều, nếu chiến tranh xâm lược bùng nổ tại Ukraina.

Tuy nhiên, nhà sử học nổi tiếng với tiếp cận lịch sử toàn cầu, xuyên nhiều thiên niên kỷ, cũng tin tưởng là chiến tranh, Luật Rừng không phải quy luật có trong tự nhiên, mà là sự lựa chọn của con người. Con người đã tạo lập được « nền hòa bình » kéo dài hơn nửa thế kỷ. Chiến tranh không phải là định mệnh, Luật Rừng không phải là luật tự nhiên. Khả năng hợp tác và xây dựng nền dân chủ có thể giúp cho nhân loại bảo vệ được hòa bình. Việc người dân Ukraina bất ngờ dựng nên nền dân chủ non trẻ, trỗi dậy lạ kỳ sau hàng thế kỷ bị đàn áp tưởng như không ngóc đầu lên được, cho thấy Ukraina có thể mang lại cho nhân loại những bài học bất ngờ.

Sau đây, xin giới thiệu với quý độc giả góc nhìn của sử gia Yuval Noah Harari trên The Economist, qua bài “Yuval Noah Harari argues that what’s at stake in Ukraine is the direction of human history” (tạm dịch là  “Sử gia Harari: Hướng đi của lịch sử nhân loại đang được quyết định tại Ukraina”). Phần chuyển dịch dựa trên bản dịch tiếng Pháp trên Courrier International).

***

HƯỚNG ĐI CỦA NHÂN LOẠI ĐANG ĐƯỢC QUYẾT ĐỊNH TẠI UKRAINA

Thành tựu chính trị lớn nhất của nhân loại trong bảy thập niên qua là tình trạng suy tàn của chiến tranh. Thành tựu đó hiện đang gặp nguy hiểm.

Trong tâm điểm của cuộc khủng hoảng Ukraina, có một câu hỏi căn bản liên quan đến bản chất của lịch sử và bản chất của nhân loại: Đó là thay đổi là có thể hay không thể? Con người có thể thay đổi được ứng xử của mình? hay lịch sử rút cục chỉ là sự lặp lại không ngừng, bởi nhân loại bị kết án mãi mãi lắp lại các bi kịch trong quá khứ, mà không có thể làm gì để thay đổi cả, có chăng chỉ là những gì không căn bản?

Có một trường phái tư tưởng phủ nhận triệt để khả năng thay đổi của con người. Theo trường phái này, thì thế giới tuân theo Luật Rừng, nơi các loài mạnh ăn thịt các loài yếu, và sức mạnh vũ trang là phương tiện duy nhất ngăn cản một quốc gia này nuốt chửng một quốc gia khác. Lịch sử đã là như vậy, và sẽ luôn luôn tiếp tục là như vậy. Những ai không tin vào Luật Rừng sẽ không chì sống trong ảo ảnh, mà còn khiến sự tồn tại của chính mình lâm nguy. Họ sẽ không thể sống sót.

Một trường phái tư tưởng khác khẳng định rằng cái gọi là luật cạnh tranh sinh tồn đúng là rất phổ biến, nhưng lại không phải là một quy luật tự nhiên. Chính con người đã tạo ra nó, và như vậy con người có thể thay đổi nó. Ngược với những ý tưởng sai lầm đang tồn tại, theo các dấu hiệu khảo cổ học xưa nhất không thể phản bác, hoạt động chiến tranh có tổ chức chỉ xảy ra vào khoảng 13.000 năm trước Công nguyên. Và ngay cả sau niên đại này, trong nhiều khoảng thời gian dài, khó tìm thấy các dấu vết khảo cổ về chiến tranh. Ngược hẳn với “trọng lực” (một quy luật tự nhiên), chiến tranh không phải là một sức mạnh vốn có của thiên nhiên. Sự tồn tại của chiến tranh, mức độ căng thẳng của chiến tranh phụ thuộc vào các yếu tố công nghệ, kinh tế và văn hóa ngầm ẩn. Và khi các yếu tố này thay đổi thì chiến tranh cũng thay đổi.

Tri thức, nguồn lực chủ yếu sáng tạo ra của cải

Có nhiều bằng chứng cho sự thay đổi này xung quanh chúng ta. Trong vòng một vài thế hệ, vũ khí hạt nhân đã biến chiến tranh giữa các siêu cường thành một nguy cơ tự sát tập thể điên rồ. Đây là điều buộc các quốc gia hùng mạnh nhất hành tinh phải tìm ra các phương tiện ít bạo lực hơn để giải quyết các xung đột. Nếu như các cuộc chiến tranh giữa các đại cường, như kiểu Thế chiến Hai hay cuộc chiến tranh Punic lần thứ hai (từ 218 đến 201 trước Công Nguyên, tại Bắc Phi và Nam Âu, giữa Carthage và đế quốc La Mã –  người dịch bổ sung) đã từng là một đặc điểm nổi trội trong phần lớn lịch sử, thì 70 năm gần đây chưa từng chứng kiến bất cứ một xung đột trực tiếp nào giữa các đại cường.

Trong cùng một giai đoạn, nền kinh tế thế giới, trước đây vốn dựa vào các nguồn tài nguyên, nay đã chuyển hướng sang dựa vào tri thức. Trong lúc trước kia các nguồn tài nguyên chính là các tài sản vật chất, như mỏ vàng, đồng ruộng, các giếng dầu, thì giờ đây nguồn tài nguyên chính là tri thức. Mà, nếu như có thể dùng vũ lực để chiếm lĩnh các mỏ dầu, thì lại không thể làm như vậy với tri thức. Chính vì vậy, chinh phục lãnh thổ giờ đây ít mang lại lợi ích hơn.

Cuối cùng thì văn hóa thế giới đã trải qua một giai đoạn biến chuyển dữ dội. Trong lịch sử, một bộ phận lớn của giới tinh hoa – ví dụ như các thủ lĩnh của người Hun, người Viking, hay giới quý tộc La Mã – đã từng cho chiến tranh là điều tốt. Từ Sargon Đại Đế vùng Lưỡng Hà đến nhà độc tài Ý Benito Mussolini, các nhà lãnh đạo thường tìm kiếm danh tiếng bất tử thông qua các cuộc chinh phạt (…). Một số thành phần tinh hoa khác, như Giáo hội Thiên Chúa giáo, từng coi chiến tranh là cái ác không thể tránh được.

Tuy nhiên, trong vòng một vài thế hệ trở lại đây, lần đầu tiên thế giới được lãnh đạo bởi một bộ phận giới tinh hoa coi chiến tranh là một cái ác có thể tránh được. Cả các Tổng thống Mỹ George W. Bush và…(**), chưa kể đến những người như Thủ tướng Đức Merkel và Thủ tướng New Zealand Ardern. Đó là những chính trị gia khác hẳn với Attila Rợ Hung hay Alaric đệ nhất, vua của tộc Goth (tức các thủ lĩnh quân sự lừng danh châu Âu thế kỷ V – người dịch). Các chính trị gia đương đại (như Merkel nay Ardern) nhìn chung lên nắm quyền nhờ việc nuôi dưỡng niềm tin trong công chúng vào ước mơ có được các cải cách trong nước hơn là tiến hành các cuộc chinh phạt bên ngoài. Trong lúc đó, những cây đại thụ trong các lĩnh vực nghệ thuật và tư tưởng – từ danh họa Pablo Picasso đến nhà điện ảnh bậc thầy Stanley Kubrick – nổi tiếng đặc biệt là do đã mô tả sự ghê rợn phi lý của chiến tranh, hơn là tôn vinh những người gây ra chiến tranh.

Đường ăn khiến nhiều người chết hơn là thuốc súng

Tiếp theo những thay đổi như vậy, phần lớn các chính quyền đã ngừng coi các cuộc chiến tranh xâm lược, như một công cụ có thể dùng đến để bảo vệ các lợi ích của họ, và đa số các quốc gia cũng ngừng nuôi dưỡng tham vọng chinh phạt và sát nhập lãnh thổ của các láng giềng. Sẽ là sai lầm khi tin rằng lực lượng quân sự duy nhất đủ để ngăn cản Brazil chinh phục Uruguay, hoặc Tây Ban Nha xâm lược Maroc.

Các thống kê cho thấy sự suy tàn của chiến tranh không thiếu. Từ năm 1945, tương đối hiếm có việc các biên giới quốc tế bị vẽ lại do một cuộc xâm lược, và không có một quốc gia nào bị xóa sổ khỏi bản đồ do một cuộc xâm lặng từ bên ngoài. Dĩ nhiên là có nhiều loại xung đột khác, như nội chiến và nổi dậy. Tuy nhiên, ngay cả khi tính tổng cộng tất cả các nạn nhân của những cuộc chiến như vậy trong 20 năm đầu của thế kỷ XXI, bạo lực chiến tranh khiến ít người chết hơn là nạn tự sát, tai nạn giao thông hay bệnh tật liên quan đến béo phì. Giờ đây thuốc súng khiến ít người chết hơn là đường.

Tính chính xác của các số liệu này là đối tượng tranh luận trong giới khoa học, nhưng cần vượt ra khỏi chuyện này để nhắm đến câu chuyện căn bản hơn. Sự suy tàn của chiến tranh không chỉ là câu chuyện thống kê mà cũng là một hiện tượng tâm lý. Trước hết, có thể thấy có một thay đổi kỳ lạ trong bản thân nghĩa của từ “hòa bình”, như một hệ quả. Trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, “thời bình” đã từng là đồng nghĩa như “sự vắng mặt tạm thời của chiến tranh”. Năm 1913, khi mọi người nói rằng đã có “hòa bình” giữa Pháp và Đức, thì điều đó chỉ có nghĩa là hai quân đội Pháp và Đức đang trong tình trạng không đụng độ trực tiếp, nhưng tất cả đều hiểu rằng chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ lúc nào.

Kể từ vài thập niên trở lại đây, “hòa bình” cuối cùng đã mang nghĩa “chiến tranh là bất khả thi”. Nhiều quốc gia ngày nay khó lòng hình dung được là họ có thể bị xâm lược và chinh phục bởi các nước láng giềng. Tôi là người sống ở vùng Trung Đông, vì vậy tôi biết rõ rằng có những ngoại lệ với xu hướng này. Nhưng việc xác định các xu hướng cũng quan trọng không kém việc chỉ ra các trường hợp ngoại lệ.

Khi con người có những lựa chọn đúng hơn

“Nền hòa bình mới” không còn là một trạng thái bất thường xét về mặt thống kê, và cũng không còn là một ảo tưởng của giới hippy. Các ngân sách – được tính toán một cách lạnh lùng – cung cấp các bằng chứng rõ ràng nhất cho điều này. Trong những thập kỷ gần đây, các chính phủ trên toàn thế giới đã cảm thấy đủ an toàn khi chỉ chi trung bình 6,5% ngân sách cho vũ trang, và chi nhiều hơn hẳn cho giáo dục, y tế và phúc lợi xã hội. Điều mà chúng ta có thể dễ dàng coi là chuyện đương nhiên, trong khi đây là một điều mới lạ đáng kinh ngạc, nếu xét trên toàn bộ lịch sử nhân loại. Trong hàng nghìn năm, chi tiêu quân sự đã từng là khoản chi lớn nhất trong ngân sách của các hoàng tử, các đại hãn, các quốc vương, hoàng đế. Họ hiếm khi chi tiền cho giáo dục hoặc chăm sóc y tế cho đại chúng.

Sự suy tàn của chiến tranh không phải là kết quả của một phép màu thần thánh hay sự thay đổi của các quy luật tự nhiên. Mà đó là bởi vì con người đã có những lựa chọn tốt hơn. Có thể nói, chắc chắn đây là thành tựu chính trị và đạo đức vĩ đại nhất của nền văn minh hiện đại. Nhưng thật không may, bởi nếu điều đó được sinh ra bởi sự lựa chọn của con người thì cũng có nghĩa là nó có thể bị đảo ngược.

Công nghệ, nền kinh tế và văn hóa tiếp tục phát triển. Sự trỗi dậy của vũ khí mạng, các nền kinh tế do trí tuệ nhân tạo điều khiển và việc tái quân sự hóa nền văn hóa của chúng ta có thể mở ra một kỷ nguyên chiến tranh mới, tồi tệ hơn rất nhiều so với bất kỳ điều gì chúng ta từng biết trước đây. Để tận hưởng nền hòa bình, điều cần thiết là tất cả mọi người, hoặc hầu hết tất cả mọi người, có được những lựa chọn đúng đắn. Ngược lại, chỉ cần một người tham gia lựa chọn tồi có thể khiến chiến tranh bùng nổ.

Đây là lý do tại sao mối đe dọa xâm lược Ukraina của Nga có thể khiến tất cả cư dân trên hành tinh này lo lắng. Nếu các quốc gia hùng mạnh có thể đè bẹp các nước láng giềng yếu hơn mà không bị trừng phạt, thì các cảm xúc và hành vi trên toàn thế giới sẽ thay đổi. Hệ quả đầu tiên, và có lẽ là rõ ràng nhất, của sự quay trở lại của Luật Rừng sẽ là sự gia tăng mạnh chi phi quân sự gây bất lợi cho phần còn lại của thế giới. Số tiền đáng lẽ dành cho giáo viên, y tá và nhân viên xã hội sẽ được đầu tư vào xe tăng, tên lửa và vũ khí mạng.

Vòng xoáy luẩn quẩn có thể dẫn nhân loại chúng ta đến chỗ diệt vong

Việc quay trở lại Luật Rừng cũng sẽ làm suy yếu hợp tác toàn cầu, đặc biệt là khi liên quan đến việc ngăn chặn biến đổi khí hậu, hoặc điều chỉnh các công nghệ tiềm ẩn nguy hiểm như trí tuệ nhân tạo và kỹ thuật di truyền. Thật không dễ dàng để làm việc, khi phải sống cạnh các quốc gia đang chuẩn bị xóa sổ nước bạn khỏi bản đồ. Và khi biến đổi khí hậu và cuộc chạy đua trí tuệ nhân tạo tăng tốc, thì mối đe dọa xung đột vũ trang cũng sẽ chỉ có thể gia tăng, giam hãm chúng ta vào một cái vòng luẩn quẩn, có thể dẫn nhân loại chúng ta đến chỗ diệt vong. Nếu bạn tin rằng sự thay đổi lịch sử là điều không thể xảy ra và loài người chưa bao giờ rời khỏi rừng rậm và sẽ không bao giờ rời khỏi rừng rậm, thì sự lựa chọn sẽ là giữa chọn làm kẻ săn mồi hoặc chọn làm con mồi. Khi ấy nếu phải lựa chọn, hầu hết các nhà lãnh đạo sẽ thà đi vào lịch sử như những kẻ săn mồi đỉnh cao và bổ sung tên của họ vào cái danh sách thê thảm của thủ lĩnh các cuộc chinh phạt mà những học sinh nghèo phải học thuộc lòng để qua được các kỳ thi môn lịch sử.

Nhưng thay đổi cũng là điều có thể? Có thể vì Luật Rừng là một sự lựa chọn chứ không phải là định mệnh? Nếu như vậy, nhà lãnh đạo nào lựa chọn quyết định xâm lược quốc gia hàng xóm sẽ có một vị trí đặc biệt trong ký ức của nhân loại, tệ hơn rất nhiều so với Tamerlane (thủ lĩnh quân sự nổi tiếng tàn bạo (sinh 1336 – chết 1405), người sáng lập đế quốc Timurid ở vùng Ba Tư và Trung Á – người dịch bổ sung). Một kẻ như vậy sẽ đi vào lịch sử với tư cách là người phá bỏ thành tựu vĩ đại nhất của chúng ta. Sẽ đưa chúng ta trở lại thế giới của Luật Rừng, trong khi chúng ta tin tưởng là đã thoát khỏi nó.

Người Ukraina có nhiều điều để dạy chúng ta

Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra ở Ukraina. Nhưng với tư cách là một nhà sử học, tôi tin vào khả năng thay đổi. Đây không phải là niềm tin ngây thơ, mà là chủ nghĩa hiện thực. Điều duy nhất bất biến trong lịch sử loài người đó là sự thay đổi. Và về chủ đề này, người Ukraina có thể có điều gì đó để dạy chúng ta. Nhiều thế hệ người Ukraina chỉ biết đến chế độ chuyên chế và bạo lực. Họ đã phải chịu đựng hai thế kỷ dưới chế độ chuyên chế Sa hoàng (cuối cùng đã sụp đổ trong cơn đại hồng thủy của Thế chiến thứ nhất). Nỗ lực giành độc lập ngắn ngủi của dân Ukraina đã nhanh chóng bị đè bẹp bởi Hồng Quân, lực lượng đã khôi phục quyền thống trị của đế chế Nga. Sau đó, người Ukraina đã trải qua nạn đói khủng khiếp do chính sách “Holodomo” (1932 – 1933) (chính sách gây chết đói hàng loạt), sự khủng bố của chế độ Stalin, sự chiếm đóng của Đức Quốc xã và nhiều thập niên bị đè nén dưới chế độ toàn trị cộng sản. Khi Liên Xô sụp đổ, đã có mọi lý do để tin rằng người Ukraina sẽ một lần nữa đi theo con đường của chế độ chuyên chế tàn bạo, vì đó là những gì duy nhất mà họ đã biết được.

Nhưng dân Ukraina đã có một sự lựa chọn khác. Bất chấp sức nặng của lịch sử, bất chấp tình trạng nghèo đói cùng cực và bất chấp những trở ngại dường như không thể vượt qua nổi, người Ukraina đã thiết lập được một nền dân chủ. Ở Ukraina, không giống như ở Nga và Belarus, các ứng cử viên đối lập đã nhiều lần lên nắm quyền. Đối mặt với mối đe dọa của một chế độ ngả sang độc tài, trong những năm 2004 và 2013, người Ukraina đã hai lần nổi dậy để bảo vệ quyền tự do của mình. Nền dân chủ với dân Ukraina là hoàn toàn mới mẻ. Cũng giống như “nền hòa bình mới” (của nhân loại từ hơn nửa thế kỷ nay – người dịch). Cả hai đều mong manh và có thể sẽ không tồn tại lâu. Nhưng cả nền dân chủ và hòa bình đều là điều có thể thành công, và có thể bắt rễ sâu. Chúng ta đừng quên rằng những gì cũ hiện nay trước đây đã từng là cái mới. Tất cả đều phụ thuộc vào những lựa chọn của con người.

Ghi chú

(*) Yuval Noah Harari (sinh năm 1976) là giáo sư Khoa Lịch sử tại Đại học Hebrew Jerusalem. Ông là tác giả của ba cuốn sách bán chạy hàng đầu thế giới : Sapiens: Lược sử loài người (2014), Homo Deus: Lược sử tương lai (2016) và 21 bài học cho thế kỷ 21 (2018).

(**) BVN lược bỏ tên Donal Trump.

This entry was posted in chiến tranh, Chiến tranh Ukraine, Nga xâm lược Ukraine. Bookmark the permalink.