Yên Khắc Chính
Hãy tưởng tượng, bạn đang ở yên trong nhà, bỗng nhiên vài đồng chí công an xuất hiện trước cửa yêu cầu bạn mở khóa cổng.
Ảnh minh họa: Báo Hà Nội mới
Lý do là họ cần kiểm tra xem trong nhà có chứa đồ vật gì phạm pháp không.
Nếu bạn chất vấn và từ chối hợp tác, họ sẽ bảo “không làm sai thì việc gì phải giấu giếm?!”.
Bạn sẽ làm gì tiếp theo? Ngoan ngoãn mở cửa mời công an vào nhà tha hồ lục lọi mọi ngóc ngách để chứng minh mình trong sạch?
Khả năng cao là không.
Ngay cả khi chưa từng đọc qua một quyển luật nào, bạn cũng biết mình có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở (một điều được ghi nhận trong Điều 22 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam). [1]
Bạn biết rằng để khám xét nơi ở của người khác, lực lượng đại diện cho chính quyền cần phải có căn cứ hợp lý và phải có quyết định/ lệnh bằng văn bản. [2] Xác suất cao là cũng không có cán bộ nào dám tùy tiện đòi lục soát nhà dân mà không có lệnh hay văn bản cho phép.
Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, được luật hóa cụ thể như hiện tại, là một trong những tiến bộ của văn minh nhân loại – sau hàng ngàn năm xung đột, tranh luận và điều chỉnh.
Đọc tới đây, cộng thêm tiêu đề, bạn đã đoán được tôi định nói gì.
Có thể bạn đang lắc đầu phản đối, so sánh gì ngu vậy, cái nhà với cái điện thoại khác xa nhau mà!
Hai thứ đó đúng là khác nhau về mặt giá trị tài sản, nhưng hoàn toàn tương đồng về giá trị riêng tư.
À mà tôi nói sai.
Chính xác là cái điện thoại vượt xa ngôi nhà ở vế sau.
Các đạo luật về bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của phương Tây được đưa ra dựa trên một trong những nguyên tắc luật pháp lâu đời nhất của họ, rằng “ngôi nhà là lâu đài của mỗi người” (a man’s home is his castle). [3]
Cái điện thoại di động thông minh ngày nay không phải là lâu đài. Nó đã trở thành cả một vũ trụ của mỗi cá nhân.
Người ta có thể mất vài ngày lục tung nơi ở của một người mà vẫn không tìm đủ thông tin để dựng nên bức chân dung về người đó. Nhưng chỉ cần vài tiếng moi hết dữ liệu từ chiếc điện thoại là có thể biết lịch sử, hiện tại, thậm chí là cả tương lai của chủ nhân thiết bị này.
Từ các mối quan hệ, những tin nhắn cá nhân, thông tin trao đổi về công việc, tài liệu mật của công ty, hồ sơ của khách hàng, các tài khoản ngân hàng cho đến thói quen đi lại, lịch sử truy cập các trang web, những dấu vết để lại trên từng ngóc ngách mạng xã hội, và tất nhiên cả hình ảnh video riêng tư – tất cả nằm trong chiếc điện thoại của mỗi người.
Kẻ trộm có thể vào nhà và lấy đi những tài sản vật chất. Nhưng nếu đột nhập được vào chiếc điện thoại, chúng có thể gây ra thiệt hại gấp trăm lần, thậm chí là hủy hoại cuộc sống của không chỉ một người.
Đây không phải là chuyện mới. Khi công nghệ phát triển, rất nhiều quốc gia đã phải cập nhật luật lệ để đảm bảo quyền của công dân không bị tổn hại.
Việt Nam có luật về bảo vệ quyền riêng tư, như được quy định trong Điều 21 Hiến pháp 2013. [4]
Khoản 2 của điều luật này ghi rõ: “Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.”
Luật là như vậy, nhưng thực tế là một bức tranh hoàn toàn khác.
Rất có thể bạn đã từng nghe, chứng kiến, hoặc chính bạn phải trải qua tình huống bị công an thu giữ điện thoại, gây sức ép buộc bạn phải mở khóa để họ kiểm tra.
Không có bất kỳ văn bản nào, không có luật sư chứng kiến, chỉ là yêu cầu “hợp tác điều tra” phát ra từ miệng công an. Trong rất nhiều trường hợp, dưới áp lực của đông đảo lực lượng công quyền, người dân buộc phải mở khóa điện thoại. Họ phải chứng minh mình “trong sạch”, “không làm gì sai để phải giấu” – một việc hoàn toàn đi ngược lại nguyên tắc suy đoán vô tội. [5]
Thử xem xét trường hợp mới nhất đang thu hút sự chú ý của dư luận. Một nhóm bạn trẻ ăn uống, gây ồn ào tại nhà trong lúc dịch COVID-19 bùng phát. Công an địa phương nhận được tin báo, đến mời tất cả về đồn. Tại đây, công an yêu cầu cả nhóm nộp điện thoại và đọc mật khẩu truy cập. Chỉ một ngày sau đó, clip riêng tư của một người trong nhóm bị phát tán trên mạng.
Nếu đúng như tường thuật của báo chí, việc tùy tiện đòi quyền truy cập điện thoại của công dân trong trường hợp này là hành vi xâm phạm quyền riêng tư nghiêm trọng. [6]
Ý thức về quyền bảo vệ dữ liệu cá nhân rõ ràng là một khoảng trắng mù mờ, cả từ phía chính quyền lẫn người dân.
Dĩ nhiên, quyền riêng tư không phải là tuyệt đối. Nó phải được thỏa hiệp để lực lượng chấp pháp có thể truy xét tội phạm, đảm bảo công bằng, giữ vững công lý.
Vấn đề là, điểm cân bằng đó nằm ở đâu? Trong trường hợp nào công an được phép thu giữ và lục soát điện thoại của dân? Theo căn cứ nào? Phải chứng minh căn cứ đó hợp lý ra sao? Quy trình xét duyệt thế nào? Ai sẽ chịu trách nhiệm cho quyết định đó? Ai có quyền giám sát? Quyền của công dân vào lúc đó? Vai trò của luật sư? Cán bộ sẽ bị trừng phạt như thế nào khi lạm quyền? Hình phạt ra sao khi dữ liệu cá nhân của công dân bị lộ ra?…
Tất cả những vấn đề này, được tranh luận dữ dội ở những nước phương Tây trong nhiều năm qua và vẫn chưa ngã ngũ, lại gần như vắng bóng trên các diễn đàn ngôn luận của Việt Nam. [7]
Trách nhiệm lớn nhất của sự thiếu vắng này tất nhiên nằm ở phía chính quyền, nơi kiểm soát toàn bộ hệ thống báo chí và có quyền sinh sát với mọi diễn ngôn đi chệch hướng chỉ đạo.
Dự thảo Nghị định về bảo vệ dữ liệu cá nhân vừa qua là một ví dụ. Dự luật này được đưa ra gấp rút, chỉ để vài tháng nhận đóng góp ý kiến, và cho tới nay không có phản hồi nào với những phản biện được đưa ra. [8]
Nhưng đó không có nghĩa là chúng ta ngừng lên tiếng.
Tất cả các tiến bộ về quyền con người từ xưa đến nay đều là kết quả của quá trình đấu tranh không mệt mỏi, đầy máu và nước mắt.
Điều tối thiểu mỗi người có thể làm là học hỏi, tìm hiểu, và lên tiếng để giành lại các cuộc thảo luận bị đánh cắp.
Y.K.C.
Nguồn: Luật Khoa