Từ phải sang: Nguyễn Hộ và Nguyễn Thanh Giang
(VNTB) – Đất nước vẫn nghèo nàn, lạc hậu, nhân dân không có ấm no, hạnh phúc, không có dân chủ tự do. Đó là điều sỉ nhục….
Giải thưởng Hellman-Hammett – một giải thưởng và cũng là một trợ cấp được Tổ chức Theo dõi Nhân quyền trao cho các nhà văn trên khắp thế giới, và các nạn nhân của đàn áp chính trị hoặc lạm dụng về nhân quyền. Ông Nguyễn Hộ được trao giải này – giải tự do phát biểu, vào năm 1988.
Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ
Ông Nguyễn Hộ (còn gọi Năm Hộ, 1916 – 2009) là một trong nhóm thành viên ban đầu khởi xướng thành lập Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ.
Câu lạc bộ này có một xí nghiệp mang tên 23 tháng 9, với dàn lãnh đạo (tất cả đều đã mất) như ông Thái Doãn Mẫn (Tám Nam), nguyên Ủy viên Ban An ninh Trung ương Cục, nguyên Phó ban An ninh T4 (khu Sài Gòn – Gia Định), nguyên Phó Giám đốc Công an TP.HCM, ông Nguyễn Văn Tông (Ba Tông), ông Tạ Bá Tòng (Tám Cần)…
Tháng 4 năm 1988, Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ lập Ban Tư vấn Chính trị để xúc tiến công việc đổi mới.
Ngày 03-6-1988 Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ tổ chức họp tại Nhà Hữu Nghị, số nhà 31 đường Lê Duẩn, quận I, TP.HCM với 104 đại biểu đồng kiến ghị gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đề nghị nên bầu Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng theo tinh thần “lấy dân làm gốc”, công khai, dân chủ, không bầu cử độc diễn, không biểu quyết bằng giơ tay.
Ký tên vào bản kiến nghị này là toàn bộ 104 đại biểu dự họp, là các ông bà lão thành cách mạng thuộc mọi tầng lớp chính trị – xã hội, thành viên sáng lập Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ: Nguyễn Hộ, Phan Trọng Tuệ, Huỳnh Văn Tiểng, Nguyễn Văn Trân, Hà Huy Giáp, Nguyễn Danh Khôi, Nguyễn Đức Hùng, Lê Thị Thanh Quý, Hồ Thị Bi, Bùi Văn Ba, Muời Hương, Tạ Bá Tòng, Hồ Hiếu, Lê Hiếu Đằng, Hai Đáng, Bàng Sĩ Nguyên…
Bấy giờ, một số lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đồng ý với chủ trương ngoài đề cử của Trung ương Đảng, cho phép các đoàn đại biểu đề cử thêm ứng viên.
Vì vậy, sau khi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng qua đời khi đương chức, Câu lạc bộ đã vận động Quốc hội bầu Phó chủ tịch thường trực Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt lên nắm chức vụ này, bởi đường lối của ông được cho là cấp tiến, mặc dù bấy giờ Bộ Chính trị đã đề cử một Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng khác là Đỗ Mười.
Kể từ khi thống nhất, đến trước năm 1988, Quốc hội Việt Nam thường biểu quyết thông qua mọi việc y nguyên gần như tuyệt đối theo đề nghị của Đảng. Tuy nhiên, tại kỳ họp tháng 6 năm 1988, lần đầu tiên Quốc hội có 2 ứng viên cho chức vụ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và ứng viên Võ Văn Kiệt mặc dù không do Bộ Chính trị đề cử lại có được 168 phiếu bầu, tức 36% trên tổng số 464 đại biểu, một tỷ lệ chưa từng có ở nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Hệ lụy của sự kiện này, xin trích giới thiệu ở đây về nội dung mà vào tháng 2-1994, ông Nguyễn Hộ đã phổ biến trong bạn bè một bài viết 50 trang đánh máy, nhan đề “Quan điểm và cuộc sống” được ông hoàn thành từ ngày 20-5-1993.
(Tít tựa phụ do biên tập viên Việt Nam Thời Báo đặt).
Ly khai Đảng…
… Ngày 31-03-1990, tôi rời khỏi Sài Gòn, cũng là ngày tôi ly khai Đảng Cộng sản Việt Nam – đảng mà sau 54 năm đeo đuổi làm cách mạng (với tư cách đảng viên) của tôi, nay đã trở thành vô nghĩa.
Sau cái ngày đáng ghi nhớ ấy khoảng hơn một tháng, một số anh em Câu lạc bộ kháng chiến thành phố gồm: Tạ Bá Tòng (Tám Cần), Hồ Văn Hiếu (Hồ Hiếu), Đỗ Trung Hiếu ( Mười Anh) bị bắt, cả Lê Đình Mạnh – người ủng hộ tích cực Câu lạc bộ kháng chiến thành phố – cũng bị bắt sau đó.
Vào cuối tháng 08-1990, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt đi gặp tôi ở vùng Phú Giáo – miền đông Nam Bộ, cách Sài Gòn khoảng 60 km, tại cái chòi sản xuất của nông dân.
Ông Kiệt hỏi tôi: “Thế này là sao?”. Tôi trả lời: “Thành phố ngột ngạt quá, tôi về nông thôn ở cho khoẻ”. Ông Kiệt nói: “Anh cứ về ở giữa thành phố, ai làm gì anh”.
Tôi đáp: “Rất tiếc, phải chi anh gặp tôi sớm hơn độ hai tháng thì tốt quá, tôi trở về thành phố ngay. Còn bây giờ thì đã muộn rồi, bởi vì dưới sự lãnh đạo của Trung ương đứng đầu là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cùng các ông Mai Chí Thọ, Võ Trần Chí, Trần Trọng Tân, Trần Văn Trà, Trần Bạch Đằng, … cả nước được chỉ đạo, phổ biến rằng tôi (Nguyễn Hộ) là tên phản động, “gián điệp, móc nối với CIA”, “nối giáo cho giặc”, “ tiếp tay báo chí nước ngoài tuyên truyền chống Đảng, chống Nhà nước”, “ lập tổ chức quần chúng (Câu lạc bộ kháng chiến thành phố) chống Đảng, lật đổ chính quyền”, “ăn tiền của Mỹ”, “ chủ trương đa nguyên, đa đảng nhằm lật đổ Đảng Cộng sản Việt Nam”.
“Tất cả sự quy chụp ấy nói lên rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạp tôi xuống tận bùn đen, chôn vùi cả cuộc đời cách mạng của tôi trong nhơ nhuốc để tôi không làm sao ngóc đầu dậy được, tình hình như vậy thì tôi trở về thành phố để làm gì trừ phi đất nước Việt Nam có dân chủ tự do thật sự. Do đó tôi quyết sống ở thôn quê đến ngày cuối cùng của đời tôi”.
Cuộc gặp gỡ giữa tôi và ông Kiệt diễn ra từ 7 giờ 30 phút sáng đến 11 giờ trưa thì kết thúc và chia tay. Được biết từ sau lần gặp gỡ đó, ông Kiệt tỏ ra phấn khởi và có nhắn muốn gặp tôi lần thứ hai ở một địa điểm nào đó gần Sài Gòn hơn để tiện việc đi lại. Khi được tin này, tôi có viết thư trả lời cho ông Kiệt rằng cuộc gặp gỡ lần thứ hai không cần thiết.
… và bị bắt
Sau đó, khoảng nửa tháng thì tôi bị bắt (07-09-1990) trên sông Sài Gòn vào lúc 7 giờ sáng, khi tôi bơi xuồng vừa cặp vào bờ, định bước lên đi vào đám ruộng cạnh đó để hái rau má, rau đắng về ăn. Đúng vào thời điểm ấy, một chiếc ghe lớn đang chạy trên sông lại cặp sát xuồng tôi, trong đó có 6 – 7 thanh niên khoẻ mạnh. Bỗng có tiếng hỏi to: “Bác ơi! bác có thấy một chiếc ghe nhỏ chạy ngang qua đây không?”. “ Không!”, tôi trả lời. Liền có tiếng hét to: “Đúng nó rồi!”.
Lúc bấy giờ, tôi mới biết đó là ghe của công an và nghe tiếng súng lên cò rốp rốp. Tức khắc có hai công an cường tráng, tay cầm súng đã nạp đạn nhảy xuống mũi xuồng nơi tôi đang đứng.
Tôi bình tĩnh hỏi: “Mấy chú muốn gì?” – “ Muốn gì về Sở thì biết”, tiếng trả lời xấc xược của một công an. Hai công an đồng loạt nắm hai tay tôi, kéo mạnh ra phía sau rồi còng ngay. Họ điều động tôi đến sát chiếc ghe lớn có tấm ván dài bắc từ mũi ghe xuống đáy. Họ xô mạnh tôi chúi mũi và tuột xuống đáy ghe. Ghe nổ máy chạy dọc con sông lên hướng tây-bắc độ 15 phút thì rẽ vào rạch nhỏ, đi sâu đến bến.
Tại đây có chiếc xe hơi nhỏ đậu sẵn. Tôi được điều lên xe và đổi còng từ phía sau ra phía trước, với bộ y phục: quần xà lỏn đen và cái áo đen ngắn tay đã xuống màu, hai bên có hai công an ngồi sát và một công an khác ngồi phía trước.
Sau nửa giờ xe chạy thì đến nơi. Người ta đưa tôi vào một nhà lá trống trải, không có cửa. Tôi được ngồi nghỉ trên cái giường gỗ nhỏ có trải chiếc chiếu cũ. Lúc bấy giờ tôi mới nhận ra rằng chính lực lượng công an huyện Củ Chi đã săn bắt tôi, tất nhiên theo lệnh của Sở công an thành phố và Bộ nội vụ. (…)
Đúng 4 giờ rưỡi chiều hôm đó, tôi được đưa lên ôtô để về Sài Gòn. Trước và sau xe tôi còn có mấy chiếc xe khác đầy nhân viên công an.
Khi đèn đường thành phố rực sáng thì xe tôi đến cơ quan Bộ Nội vụ (tức Tổng nha cảnh sát cũ trước đây). Tôi ngồi ở cơ quan nội vụ hơn một giờ thì được đưa thẳng lên Xuân Lộc (Đồng Nai), có nhiều xe công an hộ tống.
Hơn 10 giờ đêm thì tới Xuân Lộc, tôi được đưa đến một nhà trống (nhà tròn) của K4 với một bán đội công an võ trang đầy đủ. Được một tuần, người ta lại đưa tôi trở về thành phố quản thúc tại Bình Triệu, ở một địa điểm đối diện với cư xá Thanh Đa.
Sau hơn bốn tháng sống biệt lập, luôn luôn có một tiểu đội công an vũ trang canh giữ, tôi được đưa về quản thúc tại gia vào đúng ngày 30 Tết nguyên đán (đầu năm 1991) từ đó về sau này.
Thế nào là phản cách mạng?
Khi đến gặp tôi tại 3 địa điềm nói trên, các ông: Võ Văn Kiệt (phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng), Mai Chí Thọ (bộ trưởng Bộ nội vụ), Võ Trần Chí (bí thư Thành uỷ), Võ Viết Thanh (thứ trưởng Bộ nội vụ), Nguyễn Võ Danh (phó bí thư Thành uỷ), Trần Văn Danh (thành uỷ viên)… đều bảo tôi phải làm kiểm điểm (để qua đó lãnh đạo sẽ xem xét và giải quyết nhanh vấn đề của tôi theo cách giải quyết nội bộ).
Nhưng tôi nghĩ: tôi không có tội lỗi gì trong hành động của mình – hoạt động Câu lạc bộ kháng chiến. Không lẽ đấu tranh chống tiêu cực (theo chủ trương, nghị quyết của Đảng): chống tham nhũng, chống quan liêu, cửa quyền, ức hiếp, trù dập, hãm hại quần chúng; chống tư tưởng bè phái, bao che cho nhau: những người đã gây biết bao tác hại cho nhân dân, đất nước, không đức, không tài mà cứ ngồi lỳ ở cương vị lãnh đạo; đấu tranh chống tiêu cực, suy thoái như vậy là hành động phản cách mạng, “phản động”, “ nối giáo cho giặc” sao?
Do đó, tôi không làm kiểm điểm mà chỉ phát biểu quan điểm của mình về tình hình chung trong nước và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (…).
Kiểm điểm là công việc mang tính chất nội bộ. Còn ở đây sự việc lại hoàn toàn khác hẳn: người ta đã chĩa súng vào tôi, bắt còng tôi đem giam và quản thúc. Như vậy, vấn đề đã đi quá xa, còn đâu là nội bộ nữa, vì tôi đã bị coi là kẻ thù của Đảng rồi kia mà! Cho nên điều chủ yếu của tôi là chờ được đưa ra toà xét xử, xem tôi đã phạm tội gì, nặng cỡ nào với những chứng cớ đích xác của nó.
Khi tôi bị bắt, không hề có lệnh của toà án hay viện kiểm sát. Hơn nữa, đã trên hai năm bị quản thúc, vấn đề của tôi chưa được phơi bày trước ánh sáng công lý. Điều đó cho thấy ở Việt Nam hiến pháp, luật pháp đã bị chà đạp đến cỡ nào.
Câu lạc bộ kháng chiến thành phố bị đàn áp, tôi bị bắt cũng như một số anh em khác trước đó. Chúng tôi được nếm mùi còng sắt của Đảng Cộng sản Việt Nam – cũng giống còng sắt của đế quốc ngày xưa – rồi bị giam, bị quản thúc, trở thành con người hoàn toàn mất tự do, cách ly với thế giới bên ngoài. Đó là điều bất hạnh.
Tôi dám nhìn thẳng vào sự thật vì không còn là tù binh của Đảng
Tuy nhiên, vì tôi đã ly khai Đảng Cộng sản Việt Nam lúc tôi rời thành phố về sống ở nông thôn (21-3-1990), nên hơn lúc nào hết, về tinh thần và tư tưởng, tôi thấy mình lại hoàn toàn tự do, hoàn toàn được giải phóng.
Bây giờ trên đầu tôi, không còn bị kẹp chặt bởi cái “kềm sắt” của chủ nghĩa Mác-Lênin, của Đảng cộng sản nữa. Do đó, nó cho phép tôi dám nhìn thẳng vào sự thật và dám chỉ ra sự thật, đặc biệt trong tình hình sụp đổ của Đông Âu và sự tan rã của Liên Xô.
Khác với trước đây, khi còn là đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam – một thứ tù binh của Đảng – tôi chỉ biết nói và suy nghĩ theo những gì mà cấp trên nói và suy nghĩ, còn hiện nay, tôi suy nghĩ rất thoải mái, không bị một sự hạn chế nào khi tư tưởng của tôi đã thực sự được giải phóng – tư tưởng đã bay bổng. (…)
Tôi làm cách mạng trên 56 năm, gia đình tôi có hai liệt sĩ: Nguyễn Văn Bảo (anh ruột) – Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam – hy sinh ngày 09-01-1966 trong trận ném bom tấn công đầu tiên của quân xâm lược Mỹ vào Việt Nam (vào Củ Chi); Trần Thị Thiệt (vợ tôi) – cán bộ phụ nữ Sài Gòn – bị bắt và bị đánh chết tại Tổng nha Cảnh sát hồi Mậu Thân (1968), nhưng phải thú nhận rằng chúng tôi đã chọn sai lý tưởng: cộng sản chủ nghĩa.
Bởi vì suốt hơn 60 năm trên con đường cách mạng cộng sản ấy, nhân dân Việt Nam đã chịu sự hy sinh quá lớn lao, nhưng cuối cùng chẳng được gì, đất nước vẫn nghèo nàn, lạc hậu, nhân dân không có ấm no, hạnh phúc, không có dân chủ tự do. Đó là điều sỉ nhục…
***
Từ Đà Lạt, nhà thơ Bùi Minh Quốc nhận xét: Với quá trình hoạt động cách mạng trường kỳ, ông Nguyễn Hộ đã có thể dễ dàng làm quan lớn: “Với quá trình cách mạng của cụ, cụ chỉ cần im lặng thôi, thì đã dễ dàng sống ‘an nhàn’, hưởng mọi bổng lộc. Nhưng cụ không chịu sống như vậy, vẫn giữ nguyên phẩm chất người chiến sĩ, lên tiếng chống bất công”.
VNTB gửi BVN