Drake Long
Hình minh họa. Dấu tích của một rạn san hô bị hủy hoại ở quần đảo Trường Sa vào năm 2016, sau khi bị các tàu đánh cá có gắn thêm hệ thống chân vịt “máy chém” tàn phá tan hoang nhằm săn lùng ngao sò khổng lồ.
Nguồn hình: John McManus/Rosenstiel School, University of Miami.
Giới chuyên gia đang lên tiếng báo động về thực trạng các rạn san hô ở Biển Đông bị hủy hoại. Chúng là những cấu trúc rất quan trọng đối với môi trường biển và giúp ngăn chặn sự suy giảm trữ lượng cá, vốn là nguồn tài nguyên duy trì sinh kế của hàng chục triệu người.
Các nhà Hải Dương Học từng nghiên cứu khu vực này trong nhiều năm qua, vừa loan báo tình trạng ngày càng khó tiếp cận các rạn san hô để thực hiện những nghiên cứu quan trọng. Họ đang kêu gọi các chính phủ trong khu vực thành lập một cơ quan quản lý để ngăn chặn sự suy giảm các rạn san hô ngoài khơi và ngăn cấm việc đánh bắt hải sản quá mức.
Ông John McManus, một giáo sư chuyên ngành Hải Sinh Học thuộc Đại học Miami ở tiểu bang Florida, Hoa Kỳ, cho biết: “Chúng ta luôn đối diện nguy cơ biến mất ngành đánh bắt hải sản ven biển, và theo chúng tôi thì nguyên do ngành này chưa biến mất là vì các loài cá vẫn đang từ các rạn san hô ở ngoài khơi bơi vào. Vì vậy, chúng ta phải bảo vệ các rạn san hô đó.”
Theo một báo cáo nghiên cứu được công bố năm 2016, Biển Đông là môi trường có các rạn san hô phong phú đa dạng sinh học, trải dài trên diện tích khoảng 177.000 dặm vuông (458.430 cây số vuông). Hiện có khoảng 571 loài san hô và 3.794 loài cá sinh sống ở Biển Đông. Để so sánh về sự đa dạng, thống kê cho thấy có khoảng 600 loài san hô tạo nên rạn san hô nổi tiếng Great Barrier Reef ở ngoài khơi bờ biển phía đông nước Úc, và 1.500 loài cư trú tại rạn san hô này.
Thế nhưng, theo Giáo sư McManus, một số rạn san hô ở Biển Đông đã “biến mất vĩnh viễn” vì bị con người bồi đắp xây dựng các căn cứ quân sự ngay trên chúng. “Nếu con người bồi đắp xây dựng một thứ gì đó, nếu con người trút đất cát, gạch đá, xà bần… xuống, chắc chắn sẽ không có cách nào để hồi phục,” ông cho biết trong một cuộc phỏng vấn với Đài Á Châu Tự Do.
Phần lớn các hoạt động bồi đắp xây dựng như thế được thực hiện bởi Trung Quốc, bao gồm cả các vụ nạo vét đầy tai tiếng ở Đá Chữ Thập, Đá Subi, Đá Vành Khăn, Đảo Phú Lâm và một số đảo nhỏ khác từ năm 2014 đến năm 2017, nhằm bồi đắp xây dựng các đảo nhân tạo làm căn cứ quân sự của họ.
Theo ước tính của Giáo sư McManus, diện tích các rạn san hô bị phá hủy do bồi đắp xây dựng đảo nhân tạo và săn lùng ngao sò, lên đến khoảng 100 dặm vuông (258.999 cây số vuông). Mặc dù Trung Quốc đã dừng công cuộc xây dựng quy mô lớn từ năm 2017, tuy nhiên hình ảnh vệ tinh cho thấy một số khu vực trên Biển Đông vẫn đang tồn tại các công trình bồi đắp.
Hình ảnh vệ tinh ngày 5 tháng 10 cho thấy một mảng san hô ở phía tây bắc của Đảo Phú Lâm đã bị nạo vét, thể hiện qua màu xanh lam của vùng nước xung quanh nó. Planet Labs Inc.
Một mảng san hô ở phía tây bắc của Đảo Phú Lâm, căn cứ quân sự chính của Trung Quốc ở quần đảo Hoàng Sa, vừa bị phá ra và nạo vét để xây dựng một cấu trúc chưa xác định. Các thiết bị thi công xây dựng đã bị phát giác xuất hiện định kỳ trên công trình đó kể từ đầu tháng Tư vừa qua.
Ngoài ra, còn một mối đe dọa lớn khác đối với các rạn san hô là hoạt động khai thác ngao sò khổng lồ của các đoàn tàu đánh cá Trung Quốc với những chiếc tàu có gắn thêm hệ thống chân vịt, càn quét các khu vực như Bãi cạn Scarborough và Quần đảo Hoàng Sa – mà Sáng Kiến Minh Bạch Hàng Hải Châu Á đã đưa ra trong báo cáo vào năm 2019.
Theo Giáo sư McManus, chỉ cầm kiếm được 2 con ngao sò khổng lồ ẩn trong các lớp san hô giống như xi-măng, ngư dân có thể kiếm được khoảng 1.000 USD. Ông cho biết hầu như toàn bộ hoạt động đánh bắt trên Biển Đông được thực hiện bởi đoàn tàu đánh cá của thị trấn Đàm Môn (Tanmen), tỉnh Hải Nam, miền nam Trung Quốc, nơi mà việc kinh doanh vỏ ngao sò đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương.
Cho dù ngành thương mại đó có sức tàn phá lớn, nhưng ông cho biết số san hô bị phá hủy này có thể phục hồi trong vòng 20 năm nếu con người có các biện pháp bảo tồn hợp lý – tương tự như tình trạng của một khu rừng có cây cối bị đốn hạ nhưng các cây con sẽ mọc lên thay thế.
Nói chung, Giáo sư McManus ước tính rằng hơn 90% các rạn san hô còn lại ở Biển Đông cần được chú ý bảo tồn ngay lập tức.
Tương lai của các rạn san hô rất quan trọng đối với trữ lượng cá. Ngoài ngao sò, các loài cá khác cũng có mối quan hệ cộng sinh với các rạn san hô, đáng chú ý nhất là chuyện các rạn san hô chính là nơi ẩn náu của tất cả cá con trước khi chúng trưởng thành, sau đó bơi về các vùng ven biển Philippines, Việt Nam và nhiều vùng ở Malaysia.
Các cuộc nghiên cứu khoa học nhằm tìm hiểu thêm về vai trò then chốt của các rạn san hô đối với môi trường biển, cùng với vấn đề đánh bắt quá mức, đang gặp nhiều trở ngại do vấn đề tranh chấp lãnh hải trong khu vực.
Giáo sư McManus nhận xét: “Không ai thật sự có được tất cả các thông tin họ cần”. Ông đã nghiên cứu khu vực này từ những năm 1990.
Ông liệt kê 2 chuyến khảo sát khoa học ở Biển Đông lần lượt bị rượt đuổi bởi một chiến hạm và một máy bay chiến đấu của Trung Quốc. Ông tận mắt chứng kiến vụ va chạm đầu tiên vào năm 2015 khi đi cùng một nhóm phóng viên Philippines đến các tiền đồn của Philippines ở khu vực Quần đảo Trường Sa.
Giáo sư McManus nói: “Nếu mọi người vào khu vực đó trên một chiếc tàu nghiên cứu thì xác suất cao là một trong số các tàu Hải cảnh Trung Quốc… sẽ tiến đến và lao mạnh vào con tàu nghiên cứu.”
Ông ước lượng khoảng 20% trữ lượng cá đã bị khai thác quá mức ở Biển Đông, và hiện có nguy cơ biến mất hẳn, điều này sẽ gây tác động rất lớn đến ngành đánh bắt hải sản.
Các nhà khoa học kêu gọi hợp tác khu vực
Ma.Carmen A. AblanLagman, một giáo sư chuyên ngành Sinh Học thuộc Đại học De La Salle ở thủ đô Manila của Philippines, mô tả tình hình hiện nay như là một “cuộc chiến cá”, căn cứ quy mô đánh bắt bất hợp pháp và sự tranh chấp chủ quyền trong khu vực.
Bà và Giáo sư McManus là hai trong số những nhà Hải Dương Học tham gia thảo luận về vấn đề này trên diễn đàn trực tuyến do Viện Nghiên cứu East West Center có trụ sở tại Hawaii tổ chức hồi tuần trước. Họ kêu gọi chính phủ các nước hãy hình thành một Tổ chức Quản Lý Ngành Đánh Bắt Hải Sản Khu vực (Regional Fisheries Management Organization), viết tắt là RFMO, nhằm hỗ trợ các biện pháp bảo tồn ở Biển Đông và ngăn chận thói quen đánh bắt quá mức.
Giáo sư Lagman khuyến cáo: “Nếu không có thỏa thuận về một chính sách chung đối với việc đánh bắt hải sản trong khu vực, thì thực trạng vét ‘cạn tàu ráo máng’ nguồn hải sản sẽ xảy ra nhanh hơn”
Hằng năm, có đến 17 triệu tấn cá, trị giá 22 tỷ USD, đổ vào các hải cảng quanh Biển Đông. Giáo sư Lagman ước tính có khoảng 190 triệu người đang sinh sống trong các cộng đồng ven Biển Đông, với sinh kế phụ thuộc nghề đánh bắt hải sản ở những vùng biển này.
Giáo sư McManus cho biết: “Hơn 15% tổng sản lượng hải sản trên thế giới được đánh bắt từ Biển Đông, và nhu cầu về thu nhập từ ngành nghề này cao hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới. Vì vậy, chúng ta cần giải quyết vấn đề này và hướng đến các thỏa thuận về số lượng cụ thể mà mỗi người được đánh bắt.”
Về phương diện kỹ thuật, theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, các quốc gia xung quanh khu vực đều được yêu cầu thiết lập một tổ tổ chức liên chính phủ RFMO về Biển Đông.
Mặc dù hiện có một tổ chức RFMO ở Đông Nam Á được gọi là Trung tâm Phát triển Nghề Đánh Bắt Hải Sản Đông Nam Á, nhưng Trung Quốc không tham gia làm thành viên.
Giáo sư Lagman nhận định rằng thực trạng tranh chấp chủ quyền gây nên sự thúc đẩy các hoạt động đánh bắt hải sản bất hợp pháp hoặc vô kiểm soát. Theo bà, nếu một quốc gia cho rằng các ngư trường đều thuộc về họ theo luật của họ, và quốc gia khác cũng có quan điểm tương tự, từ đó xung đột sẽ nảy sinh, phần lớn nguyên do đến từ chuyện ngư dân của một quốc gia có thể bị cấm đánh bắt ở một khu vực bởi quy định của địa phương, nhưng ngư dân của một quốc gia khác lại không bị hạn chế như vậy.
– “Ở đây, chúng ta đang nói về ‘chiến tranh’, vì sinh kế đang bị đe dọa,” bà nói.
Trung Quốc, nước sở hữu đoàn tàu đánh cá đông nhất thế giới, tuyên bố chủ quyền trên hầu hết Biển Đông. Trong khi đó, 6 chính phủ các nước Á châu khác cũng tuyên bố lãnh thổ hoặc lãnh hải chồng lấn với yêu sách của Trung Quốc. Các quốc gia đó gồm Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam.
Chuyện đó làm phức tạp thêm triển vọng thành lập một tổ chức RFMO. Tuy nhiên, mặc dù Giáo sư McManus nhận định rằng sẽ rất khó hình thành tổ chức này với sự hiện diện của Trung Quốc, nhưng theo ông điều đó không phải là không thể.
Ông chỉ ra một dấu hiệu cho thấy có sự hợp tác đang diễn ra, đó là Trung Quốc và các nhà khoa học Trung Quốc đã tham dự các hội thảo về quản lý nghề đánh bắt hải sản tên Biển Đông. Bất chấp lập trường chính trị của Bắc Kinh, ông cũng không cho rằng Trung Quốc đang kiểm duyệt hoặc che giấu bất kỳ nghiên cứu khoa học nào về các rạn san hô và hệ sinh thái ở vùng biển tranh chấp.
Giáo sư McManus nhận định: “Ngay chính họ (Trung Quốc) cũng sẽ phải chịu thiệt hại rất nhiều nếu các nguồn trữ lượng hải sản này mất đi. Vì vậy, một động lực thúc đẩy họ hợp tác đã xuất hiện và động lực này đang ngày càng mạnh hơn. Đáng tiếc, cái giá đánh đổi lại là rất nhiều hải sản đã biến mất.”
D.L.
Nguồn: RFA