Thiên thời, địa lợi, nhân hòa cho một sự thay đổi hòa bình ngoạn mục*

Trần Gia Ninh

 

NHÂN SINH TỰ CỔ THÙY VÔ TỬ LƯU THỦ ĐAN TÂM CHIẾU HÃN THANH. 人生自古誰無死 留取丹心照汗青

(Đời người xưa nay ai chẳng chết. Để lại lòng son rọi ngàn thu”)

Hai hôm nay đề tài sôi nổi nhất là bài phát biểu của ông Nguyễn Phú Trọng tại hội nghị TW ĐCS lần thứ 10. Sau cơn bạo bệnh của tuổi già, ông Trọng đã trở lại mạnh mẽ và phát biểu ứng khẩu trong 16 phút khá sắc sảo, nêu lên nhiều câu hỏi, tâm tư về Đảng và Đất nước.

Trước hết phải công nhận ông Trọng là một nhà chuyên môn giỏi, bởi nghề ông được đào tạo là xây dựng đảng và ông đã làm rất tốt để sửa chữa lại Đảng của ông đang xuống cấp rất trầm trọng trong suốt thời gian qua (như đốt lò chẳng hạn). Gần đây thì ông kiêm giữ nhiệm vụ đứng đầu nhà nước, và ông đã bắt đầu lo lắng đến vấn đề giữ vững và phát triển đất nước.

Dân ta và cả ĐCS Việt Nam cũng như thế giới đều công nhận nước Việt Nam ta thuộc nhóm nước theo thể chế Chuyên chính Một đảng. Về phương diện lý luận hay học thuyết, gọi là nhà nước pháp quyền XHCN hay nhà nước chuyên chính vô sản cũng bình thường. Một sự vật, một hiện tượng… được diễn tả bằng các tên gọi khác nhau, tùy ngữ cảnh, tùy mục đích, cũng là chuyện chấp nhận được. Ông Trọng hiểu rõ điều đó hơn ai hết. Tuy nhiên ông với tư cách mới đứng đầu nhà nước, một nghề mới đối với chuyên môn của ông thì ông chắc chắn phải quan tâm là:

VIỆT NAM ĐANG Ở ĐÂU TRÊN BẢN ĐỒ KINH TẾ THẾ GIỚI?

Xếp hạng thế giới của VIỆT NAM

Dân số xếp thứ 15: 95,581.592 người (2017)

Diện tích xếp thứ 66: 331.212 km2

Tổng sản phẩm quốc nội GDP xếp thứ 48: 191,454 tỷ US$ (IMF 2015)

GDP theo đầu người xếp thứ 132: 2.306 US$ (IMF 2017)

PPP theo đầu người, xếp thứ 124: 7.378 US$ (IMF 2017)

Những số liệu nói trên cho thấy Việt Nam là một nước lớn về dân số, trung bình về diện tích, và nghèo, thậm chí rất nghèo so với thế giới. Có nhiều người đổ lỗi là do thể chế chuyên chính một đảng. Không thể vội vàng kết luận như vậy. Bởi vì thể chế chính trị nào kết cục mà mang lại phồn vinh, hạnh phúc thì đều tốt, như người Anh vẫn nói All’s Well That Ends Well (W. Shakespeare), hay Ende gut, alles gut (tục ngữ Đức): Kết cục tốt thì tất cả là tốt! Trong lịch sử phát triển, chế độ chuyên chính, toàn trị cũng không phải là hoàn toàn tiêu cực. Thể chế này có ưu điểm là trong một giai đoạn cần thiết, với sự cưỡng bức theo mục tiêu chấn hưng dân tộc và nếu có sự cai trị thông minh, hết lòng vì nước, vì dân, dù biện pháp có tàn bạo, cũng có thể đưa một dân tộc từ yếu hèn lạc hậu nhanh chóng phát triển thành một dân tộc phồn vinh, hùng mạnh. Chỉ cần lưu ý là thể chế này chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Những thí dụ như vậy khá nhiều, ví dụ như Liên xô thời 1924-1940, Đài Loan thời Quốc Dân Đảng 1948-1987. Một thí dụ khác là Hàn Quốc 1960-1990 mà các nhà lãnh đạo Việt nam lấy làm gương để noi theo. Hàn Quốc rất tương đồng với Việt Nam, là một nước thuộc địa đến 1945, sau đó trải qua chiến tranh tàn phá đến năm 1954 mới yên. Nếu nhìn lại giai đoạn 30 năm 1960-1990 của Hàn Quốc thì rất giống với Việt Nam giai đoạn 1981-2010: cũng sau chiến tranh tàn phá 6 năm, cũng có sự nghèo khó như nhau (GDP Hàn Quốc 1960 là 155 US$, Việt Nam năm 1981 là 251$), cũng có một thể chế chính trị chuyên chính độc tài, phản dân chủ.

Sau 30 năm, với mức tăng GDP 34 lần, Hàn Quốc trở thành cường quốc, dù sau đó họ chuyển sang thể chế dân chủ theo quy luật tất yếu, nhưng công lao của thế hệ chuyên quyền vì sự chấn hưng của dân tộc Hàn, như Pak Chung Hee vẫn được ghi nhận.

Cũng 30 năm chuyên chính, cũng hòa bình xây dựng, cũng cùng mức xuất phát, nhưng đất nước Việt Nam chỉ tăng trưởng được 4,25 lần, bằng 1/8 của Hàn Quốc. Quốc gia VN vẫn nghèo nàn lạc hậu. Dân tộc VN đã bị nhầm lẫn, phải trả cái giá quá cao để đổi lấy một thảm hoạ cho sự chấn hưng thất bại.

Người ta cũng thường biện minh rằng, dân chủ, đa nguyên, đa đảng làm cho xã hội mất ổn định, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội, lấy thí dụ điển hình như nước láng giềng Thái Lan, nước được thế giới xếp vào loại dân chủ còn khiếm khuyết. Muốn nhìn nhận vấn đề này một cách khách quan, hãy so sánh sự phát triển của Việt Nam và Thái Lan trong hơn 30 năm vừa qua (1980-2012):

Xuất phát điểm thập kỷ 80 Việt Nam chỉ kém Thái Lan ít , từ 40%-74%, tức xấp xỉ 1/2-3/4 Thái Lan thôi, nhưng đến năm 2012 Việt nam chỉ còn bằng 26,8% tức xấp xỉ ¼ Thái Lan. Thể chế nào ưu việt hơn cho sự phồn vinh của dân tộc quả thật không cần bàn cãi.

Trường hợp Thái Lan và Việt Nam là một chứng minh, cùng một trình độ tầm thường như nhau của giới cầm quyền thì thể chế dân chủ đã chiến thắng thể chế chuyên chính toàn trị một đảng.

Khi Việt Nam tuyên bố năm 2020 VN sẽ là một nước công nghiệp, thì thực trạng sẽ như thế nào?

– Năm 2012 Việt nam (1373$) bằng Thái Lan năm 1981-82, tụt hậu 30-31 năm.

– Còn năm 2019 IMF dự đoán Việt Nam (2473$) bằng Thái Lan năm 1985, tụt hậu 34 năm.

Khoảng cách thụt lùi so với Thái Lan không những không giảm mà còn bị nới rộng ra. Vậy thì có còn hy vọng phép màu nào để đuổi theo hàng xóm? Nói chi đến chuyện biến VN thành rồng.

Ai đó cho rằng, so sánh với nước ngoài chỉ để làm rối lòng dân, gây cản trở cho ổn định, vì sự thật không thể phủ nhận là người dân Việt Nam ta hôm nay ăn no, mặc ấm hơn hôm qua nhiều, còn muốn đòi hỏi gì nữa đây!

Đã hơn 4 thập kỷ kể từ mốc 1975. Thử nhìn lại các chu kỳ 40 năm đã xảy ra ở nước ta. Thực dân Pháp chỉ có 40 năm là thời gian 1900-1940 tương đối yên ổn để xây dựng và bóc lột nước ta. Bảy mươi lăm năm sau, hơn bốn thập kỷ 1979-2018 cũng là thời gian CHXNCNVN tương đối yên ổn xây dựng đất nước. Trong 4 thập kỷ thực dân Pháp đã dùng một phần của cải của VN (còn phần lớn bị bóc lột mang đi) cùng với 95% dân VN mù chữ để xây dựng hệ thống đường sắt, đường bộ, cảng biển, sân bay…; đã xây dựng Hà Nội, Sài Gòn… đẹp nổi tiếng Á châu. Bây giờ, với trình độ KHCN gấp trăm lần so với 75 năm trước và với 95% dân biết chữ, cũng với hơn 4 thập kỷ yên ổn, VN đã hoàn thành việc nông thôn hóa Hà Nội và Sài Gòn. Hệ thống đường sắt còn kém hơn thời Pháp. Hệ thống đường bộ, cảng biển cải tiến chắp vá, không xây nổi một đường cao tốc Bắc-Nam là điều tối thiểu cho hạ tầng bất kỳ quốc gia nào.

VN tự hào từ thiếu đói triền miên, năm 1990 đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn của thế giới. Nhưng trước 1945 Nam Kỳ vốn là địa phương xuất khẩu gạo lớn rồi.

Người VN sướng hơn trước thực ra là sự phục hồi đương nhiên của mọi dân tộc có sức sống, không phụ thuộc vào lãnh đạo. Hơn nữa, những khó khăn khổ sở của dân VN trước đó do chính sách sai lầm gây ra, nay xóa bỏ chính sách đó đi, thì với một dân tộc có sức sống mãnh liệt, nền kinh tế sẽ phát triển tự nhiên. (Phải nhấn mạnh rằng sự phục hồi đương nhiên của một dân tộc có sức sống chỉ có thể thành công khi có một xã hội ổn định. Điểm son đối với sự lãnh đạo của nhà nước trong thời qua là giữ được sự ổn định xã hội, cần được ghi nhận).

Tuy nhiên, nhìn ra xung quanh thì thua kém xa thiên hạ. Đóng cửa tự khen cũng không thuyết phục. Đấy chỉ là mấy thí dụ đong đếm được, chưa bàn đến chuyện cao siêu như sự xuống cấp của đạo đức, sự tụt hậu về trí tuệ, sự tan rã của văn hóa xã hội, sự chia rẽ, hận thù ân oán vay trả trong lòng dân tộc. Tham nhũng tràn lan, dân mất lòng tin vào chính quyền, trí thức bỏ đi, xã hội mất động lực phát triển. Tự cổ chí kim, nhãn tiền là sự lạc hậu, sau đó là mầm họa của loạn.

ĐỂ ĐẤT NƯỚC VN HÙNG CƯỜNG

Đối với một dân tộc, nếu sự thụt lùi ngày càng mở rộng, thì trong cái thế giới phẳng này, điều đó có nghĩa là sự lụi tàn ngày càng gần lại. Chỉ có thay đổi mới tránh được họa đó. Nhưng nói đến thay đổi, đặc biệt là thay đổi thể chế chính trị, thì nhiều người lớp U50+ hoặc là ngại ngần, sợ hãi (nhất là U50+ trong chính giới), hoặc là đả phá cực đoan, nuối tiếc vô vọng về quá khứ trước 75 cả hai phía. Kể từ 1975 đến nay đã 44 năm. Giống như đời người là đã bước sang giai đoạn “tứ thập nhi bất hoặc 四什而不惑 “ , 40 không (được) lầm lẫn nữa.

Bốn thập kỷ cũng là con số thống kê trung bình về số phận của các thể chế chuyên chính. Vì về bản chất, thể chế chuyên chính dựa vào áp đặt, bạo lực, là mảnh đất để thù hận, ân oán… nảy nở. Đó là một hệ thống cai trị chứa đựng mâu thuẫn đối nghịch, địch ta, cho nên sớm hay muộn, theo quy luật cũng bị tan rã do tự thân hoặc ngoại lai. Khác với các thể chế dựa trên sự đồng thuận có thể tự hoàn thiện để phát triển lâu dài, thể chế chuyên chính không có cơ chế sửa lỗi để tự hoàn thiện nên phải tan rã.

Theo khoa học về tổ chức xã hội, bốn thập kỷ là thời gian trung bình chín muồi của ít nhất ba thế hệ hành động, là thời gian đủ cho các giá trị đương thời theo quy luật là tách rời khỏi ảnh hưởng của giá trị ban đầu 40 năm trước. Dù cho 40 năm trước rực rỡ huy hoàng cũng không cứu được. Cho nên thay đổi là đương nhiên theo lẽ trời. Thay đổi lúc vào tuổi giữa tuổi 40 lúc này là tất yếu, chỉ có điều là phải thông minh, khách quan để làm chủ sự thay đổi đó môt cách hòa bình mà thôi.

VĨ THANH

Ông Trọng năm nay vừa bước sang tuổi 75. Xin chúc mừng ông nhân ngày sinh (chúc muộn còn hơn không). Như chúng tôi, ông cũng đã nhìn thấy tấm gương của những người nắm quyền lực đi trước ông đã mang gì theo khi trở về cát bụi và để lại gì cho hậu thế đánh giá ngàn năm. Họ có thể đã cố gắng hết sức mình, nhưng có thể phạm sai lầm do năng lực, do nhầm lẫn, do thiếu hiểu biết, do tham làm, do chưa đủ quyền lực hay là do thời thế chưa đủ… cho nên đã phá nát vinh quang và công lao dựng nên bởi xương máu người dân, của các anh hùng hào kiệt, của các tiền bối lão thành… và rồi hậu quả bia miệng muôn đời không sao gột được. Họ thật đáng trách nhưng cũng đáng thương. Ông đi sau, lại đủ tài năng, thiên thời, địa lợi, nhân hòa cho một sự thay đổi hòa bình ngoạn mục. Ông đủ quyền lực và sự ủng hộ cho việc đổi thay đó. Bây giờ và không bao giờ! Chúng tôi không nghi ngờ gì về sự nặng lòng với dân với nước (và với ĐCS nhất định rồi) của ông. Xuất thân Văn Sử, chắc ông thuộc lòng câu thơ của Văn Thiên Tường:

NHÂN SINH TỰ CỔ THÙY VÔ TỬ LƯU THỦ ĐAN TÂM CHIẾU HÃN THANH. 人生自古誰無死 留取丹心照汗青

(P/S: Còn thay đổi thế nào, xin bàn lúc thích hợp…)

T.G.N.

Nguồn: FB Gia Ninh Trần

* Tên bài do BVN đặt, trích trong bài viết của tác giả

This entry was posted in Cải tổ thể chế, Thể chế. Bookmark the permalink.