USS Theodore Roosevelt & Coronavirus: Nghịch lý năm 2020

Nguyễn Quang Dy

 

Ngày 5-9/3/2018, tàu sân bay USS Carl Vinson đến thăm Đà Nẵng lần đầu để “nối vòng tay lớn” nên khá ồn ào. Ngày 5-9/3/2020 tàu sân bay USS Theodore Roosevelt đến thăm Đà Nẵng lần thứ hai nên phải kín đáo hơn (low profile) để không làm mất lòng Trung Quốc. Nhưng chẳng lẽ Bắc Kinh dễ bị Hà Nội và Washington sỏ mũi như vây? Đây là một nghịch lý.

http://www.viet-studies.net/kinhte/NQuangDy_USSRoosevelt.png

Tàu sân bay USS Theodore Roosevelt tại cảng Tiên Sa-Đà Nẵng, 5/3/2020. Ảnh VGP.

Nghịch lý cần xem lại

Trong báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ về Chiến lược Indo-Pacific (6/2019), Mỹ đã khẳng định “ưu tiên quan hệ với Viêt Nam, Indonesia, và Malaysia”. Trong khi đó, Viêt Nam thấy “không có cường quốc nào thích hợp hơn là Mỹ để hợp tác”, nhằm đối phó với Trung Quốc tại Biển Đông, vì họ đã bắt nạt Việt Nam tại bãi Tư Chính trong năm 2019.

Trong năm 2019, Mỹ đã vận động Việt Nam hàng năm đón tàu sân bay Mỹ như một phần của kế hoạch nâng cấp quan hệ hai nước lên đối tác chiến lược, nhưng không thành. Năm 2019, Trung Quốc đã cho tàu chiến xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam gần Bãi Tư Chính để quấy rối trong nhiều tháng, tạo ra một bước ngoặt mới (tipping point).

Ngày 25/11/2019, Việt Nam công bố Sách trắng Quốc phòng (sau 10 năm), nhấn mạnh sẽ “xem xét phát triển quan hệ quốc phòng cần thiết và thích hợp với các nước khác”. Ngày 5-9/3/2020, Việt Nam đón tàu sân bay USS Theodore Roosevelt là kết quả của chủ trương đó, trước khi ông Rodrigo Duterte hủy bỏ Hiệp định VFA (Visiting Forces Agreement).

Nhưng Việt Nam vẫn muốn kín đáo hơn về sự kiện này, và phía Mỹ cũng nhất trí. Tuy thái độ ứng xử đó trước đây là cần thiết, nhưng từ năm 2020 phải xem xét lại. Sự kiên bùng phát dịch coronavirus (1/2020) đã tại ra một bước ngoặt mới làm đảo lộn tình thế, bộc lộ gót chân A-sin của Trung Quốc, và dẫn đến khủng hoảng kinh tế-chính trị khó lường.

Theo các nhà phân tích, Washington đã chấp nhận trò chơi của Hà Nội: (1) kín đáo để không làm Trung Quốc mất lòng, (2) biến sự kiện tàu hải quân Mỹ đến thăm Đà Nẵng thành “chuyện bình thường” (new normal), (3) Việt Nam vẫn kiên trì với chính sách “ba không” (không có căn cứ quân sự, không liên minh quân sự, và không chống nước thứ ba).

Điều đó có nghĩa tàu sân bay USS Theodore Roosevelt và tàu tuần dương USS Bunker Hill của Mỹ đến thăm Đà Nẵng như “đi qua vô hại” (innocent passage) như tuần tra FONOP của Mỹ. Liệu có phải vì thế mà Trung Quốc giảm quân sự hóa Biển Đông và không bắt nạt các nước láng giềng như họ đã làm với người Việt Nam tại Bãi Tư Chính năm 2019?

Nếu quan hệ đối tác toàn diện (hay chiến lược) Việt-Mỹ là chính đáng và cần thiết để góp phần duy trì hòa bình và ổn định khu vực, thì Hà Nội và Washington không nên sợ làm Trung Quốc mất lòng. Nghịch lý cũ này đã trở thành “thói quen” (new normal), trong khi coronavirus đang lật ngược thói quen đó, làm bộc lộ “gót chân A-sin” của Trung Quốc.

Mấy tháng qua, coronavirus đã gây ra thảm họa kinh hoàng cho Trung Quốc tại tâm chấn Vũ Hán, với những tổn thất hữu hình và vô hình mà không một “thế lực lực thù địch” nào có thể làm được. Sức mạnh kinh tế và quân sự của người khổng lồ Trung Quốc đang bị con virus nhỏ bé đến vô hình làm vô hiệu hóa. Đó là một nghịch lý mới cần xem xét.

Nhóm làm phim tài liệu “Đêm trường Vũ Hán”, 2/2020. Ảnh: Sixth Tone/Weibo

Hệ quả không định trước

Khủng hoảng coronavirus dẫn đến mấy “hệ quả không định trước” làm các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách giật mình tỉnh ngộ. Bàn cờ địa chính trị thế giới đang chuyển biến khó lường, vượt qua tầm nhìn của tư duy chiến lược “thông thường”. Muốn hoạch định chính sách hiệu quả, người ta cần đổi mới tư duy để hiểu về virus và dịch bệnh.

Về kinh tế, người ta nhận ra rằng giảm lãi suất không phải là thuốc giải độc hiệu quả để đối phó với coronavirus. Cách tốt nhất là phát triển vaccine để giảm thiểu số người bị lây nhiễm. Theo New York Times (28/2/2020), cơ quan có ảnh hưởng lớn nhất đối với nước Mỹ lúc này không phải là Fed mà là CDC (Centers for Disease Control and Prevention).

Theo các chuyên gia, coronavirus làm kinh tế toàn cầu thiệt hại hơn một ngàn tỷ USD trong quý một (chủ yếu là Trung Quốc). Tăng trưởng thực sự của Trung Quốc sẽ giảm xuống còn 3-3,5 %, và nền kinh tế Trung Quốc khó tránh được suy thoái. Sức ép do khủng hoảng coronavirus như một cơn ác mộng đang làm cho chuỗi cung ứng toàn cầu bị suy sụp.

Về chính trị, người Trung Quốc nhận ra rằng họ đang phải trả giá đắt vì chính quyền bưng bít thông tin và bịt miệng người dân, rằng chỉ có tự do ngôn luận mới cứu được họ. Trước khi chết, bác sỹ Lý Văn Lượng (Li Wenliang) đã để lại một câu nói tuy đơn giản nhưng làm hàng triệu người tỉnh ngộ: “Một xã hội lành mạnh không nên chỉ có một tiếng nói”.

Để đối phó với chỉ trích đó, Bắc Kinh đã quản thúc giáo sư Hứa Chương Nhuận (Xu Zhangrun) vì đăng bài “Khi phẫn nộ vượt qua sợ hãi” (Viral Alarm: When Fury Overcomes Fear) và bắt giam luật sư Hứa Chí Vịnh (Xu Zhiyong). Đó là những hành động thiếu khôn ngoan, không tháo được ngòi quả bom nổ chậm mà còn làm cho tình hình tồi tệ hơn.

Trung Quốc có thể đầu tư hàng tỷ USD để triển khai “hệ thống cho điểm xã hội” với công nghệ AI và hàng triệu máy ảnh. Nhưng sử gia Yuval Harari từng cảnh báo rằng “thuật toán có nguy cơ tạo ra nền độc tài số…Văn minh nhân loại đang đứng trước rủi ro nếu không có giải pháp… Chúng ta không bao giờ được đánh gía thấp sự ngu xuẩn của con người”.

Người ta cần hiểu rằng sau khủng hoảng coronavirus, Trung Quốc sẽ không thể như trước nữa. Quyền lực gần như tuyệt đối của Tập Cận Bình đang bị thách thức và rạn nứt trước cuộc khủng hoảng chính trị tiềm ẩn. Trung Quốc sẽ không đủ nguồn lực để phục hồi như sau dịch SARS (2003), làm ảnh hưởng đến kế hoạch đầy tham vọng của họ ở Biển Đông.

Tàu tuần dương USS Bunker Hill (CG-52) tại cảng Tiên Sa-Đà Nẵng. Ảnh: Tuổi Trẻ

Bàn cờ địa chính trị

Trong bối cảnh đó, Tổng thống Trump vừa đi thăm Ấn Độ (24-26/2/2020) như một nước cờ khôn ngoan đúng lúc, để lôi kéo Thủ tướng Modi “cùng nhau bảo vệ chủ quyền, an ninh của vùng Indo-Pacific tự do rộng mở cho nhiều đời sau”. Mỹ và Ấn Độ “đều muốn ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc” và “hai nước cùng chung một tình hữu nghị vĩ đại”.

Trong chuyến thăm này, Trump muốn cung cấp cho Ấn Độ “những vũ khí tốt nhất và đáng sợ nhất hành tinh”, nhưng Modi không muốn ra mặt chống Trung Quốc và trở thành “tiền đồn của tự do”. Nói cách khác, New Delhi không muốn Ấn Độ “bỏ tất cả trứng vào một rổ”, vì ba nước (Mỹ-Trung-Ấn) gắn kết với nhau bằng “xung đột, cạnh tranh, và hợp tác”.

Trong khi đó, Mỹ hoãn họp thượng đỉnh Mỹ-ASEAN (dự kiến tại Las Vegas ngày 14/3) vì lý do coronavirus. Theo Carl Thayer, lý do đó thiếu thuyết phục, vì đó chính là dịp tốt để lãnh đạo các nước thảo luận cách phối hợp để đối phó với dịch. Nhưng thời gian và địa điểm có thể làm lãnh đạo một số nước ASEAN không đến dự (như Philippines và Malaysia).

Đối với Việt Nam, quyết định hoãn họp Mỹ-ASEAN còn làm mất đi một cơ hội thuận tiện để lãnh đạo cấp cao Mỹ-Việt gặp nhau, sau khi chuyến thăm Mỹ của ông Nguyễn Phú Trọng đã không diễn ra cuối năm 2019 như mong đợi. Trong bối cảnh đó, chuyến thăm Đà Nẵng của tàu sân bay USS Theodore Roosevelt (5-9/3/2020) có ý nghĩa quan trọng.

Theo Carl Thayer, chuyến thăm lần này của tàu USS Theodore Roosevelt cho thấy Mỹ vẫn đang thực hiện một trong ba mũi nhọn trong chiến lược của họ tại khu vực: (1) sự hiện diện thường xuyên của tầu tuần tra hải quân Mỹ (FONOP), (2) hiện diện thường xuyên của máy bay ném bom Mỹ (overflights), (3) tự do hoạt động hàng hải (tại Biển Đông).

Chuyến thăm của tàu sân bay USS Theodore Roosevelt tuy không thay thế được gặp gỡ cấp cao để hai nước có thể nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược, nhưng nó khẳng định chiến lược của Mỹ ở khu vực trong bối cảnh Philippines hủy bỏ Hiệp định VFA với Mỹ. Nó còn tạo ra tiền lệ để Việt Nam và Mỹ tăng cường hợp tác quốc phòng thường xuyên hơn.

Đến lúc cần xem xét lại lý do Việt Nam muốn Mỹ kín đáo hơn (low key) về chuyến thăm này. Một là Trung Quốc bị suy yếu và khủng hoảng sau thảm họa coronavirus, là thời điểm thuận lợi (chứ không phải bất lợi). Hai là chuyến thăm Ấn Độ của Trump chứng tỏ Mỹ đang quan tâm và tăng cường cam kết với khu vực Indo-Pacific (chứ không phải giảm).

Vì vậy, đây là cơ hội tốt để các nước như Việt Nam thoát Trung. Theo bà Phạm Chi Lan, có một nghịch lý đáng lo ngại là Việt Nam càng hội nhập quốc tế, càng ký thêm các FTA thì lại càng phụ thuộc hơn vào Trung Quốc, chứ không giảm xuống. Việt Nam càng phụ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị thì càng rủi ro về an ninh và quốc phòng.

Lời cuối

Trung Quốc là bậc thầy về binh pháp Tôn Tử, nên họ thường vận dụng nguyên lý “mềm nắn rắn buông” (bullying the weak and fearing the strong) và “Tam chủng chiến pháp” (Three Warfare doctrine) để gây sức ép (về tâm lý, pháp lý, truyền thông). Nếu Việt Nam (hay Mỹ) càng nhân nhượng thì Trung Quốc càng lấn tới, vì thiếu công cụ răn đe hiệu quả.

Trong binh pháp, nếu muốn răn đe thì không phải chỉ tăng cường binh lực (sức mạnh cứng) mà còn phải sẵn sàng chiến đấu (sức mạnh mềm). Dưới thời ông Obama, với chủ trương “lãnh đạo từ phía sau” (leading from behind), nên Mỹ tránh gây căng thẳng với Trung Quốc. Bắc Kinh đã bắt mạch và nắn gân được Mỹ, nên ráo riết quân sự hóa Biển Đông.

Theo ông Gorbachev “Thảm họa Chernobyl là một bước ngoặt lịch sử” đối với Nga”, và theo các chuyên gia, “thảm họa coronavirus cũng là một bước ngoặt lịch sử đối với Trung Quốc”. Bắc Kinh phải giữ chính danh bằng cam kết với dân (Faustian deal), nhưng coronavirus làm bộc lộ tử huyệt của chế độ chuyên chế và làm sụp đổ lòng tin của người dân.

Khủng hoảng coronavirus như quả bom hạt nhân nổ chậm từ tâm chấn Vũ Hán lan ra toàn cầu (đến nay là 103 nước, với 106.191 ca lây nhiễm, và 3.600 tử vong). Đây là một thảm họa khó lường, với những tổn thất kinh hoàng về người và của, cả hữu hình lẫn vô hình, tạo ra một bước ngoặt mới cho Trung Quốc, làm đảo lộn bàn cờ địa chính trị thế giới.

Nếu Trung Quốc không vượt qua được thảm họa này và suy sụp như “màn chót” (End Game, David Shambaugh), họ dễ bị phân liệt như thời Chiến Quốc. Nếu vượt qua được, Trung Quốc có thể thay đổi theo “Làn sóng Thứ ba” (Third Wave, Samuel Huntington). Minxin Pei cho rằng Trung Quốc có thể theo mô hình cải cách lồng ghép (Refolution).

March 8, 2020

N.Q.D.

_______

Tham khảo:

1. Transition in China?: More Likely than You Think, Minxin Pei, Journal of Democracy, Johns Hopkins University Press, Volume 27, Number 4, October 2016

2. Is Political Change Coming to China? Yuen Yuen Ang, Project Syndicate, February 14, 2020

3. Coronavirus Could Break Iranian Society, Graeme Wood, Atlantic, February 27, 2020

4. China’s Coronavirus Recession Has Arrived, Salvatore Babones, National Interest, February 27, 2020

5. China: Complicated ties with India, US, Frank Sieren, DW News, February 27, 2020

6. Three ways to stop a coronavirus recession, Matthew Lynn, Spectator, February 28, 2020

7. How the coronavirus is shaking up Asia’s political order, William Pesek, Washington Post, March 3, 2020

8. China’s Coronavirus Crisis Is Just Beginning, Geremie Barmé, NYTimes, March 3, 2020

9. No Masking It: Coronavirus Has Infected China’s Economy, Milton Ezrati, National Interest, March 3, 2020

10. Vietnam: Significance of 2nd Visit by U.S. Navy Aircraft Carrier, Carl Thayer, Background Briefing, March 3, 2020

11. Is Covid -19 China’s Chernobyl Moment? Liubomir Topaloff, Diplomat, March 4, 2020

12. Trump’s ASEAN Summit That Never Happened, Greg Rushford, March 5, 2020

13. US aircraft carrier visit and Vietnam’s delicate balancing act, Le Hong Hiep, Think China, March 5, 2020

14. USS Theodore Roosevelt’s Vietnam Visit: Low Key, High Touch, Le Hong Hiep, ISEAS Commentary, March 6, 2020

15. Why the Coronavirus Could Threaten the U.S. Economy Even More Than China’s, Austan Goolsbee, New York Times, March 6, 2020

Tác giả gửi BVN

This entry was posted in Coronavirus, Quan hệ Việt Mỹ. Bookmark the permalink.