‘Rà soát EVFTA’: VN bắt đầu nhượng bộ EU về nhân quyền?

Phạm Chí Dũng

Phiên tòa xử luật sư Nguyễn Văn Đài tại Hà Nội hồi tháng Tư, 2018.

Phiên tòa xử Luật sư Nguyễn Văn Đài tại Hà Nội hồi tháng Tư, 2018.

Vào cuối tháng Sáu năm 2018, sau hai năm rưỡi khắc khoải chờ đợi, ‘tin vui’ đã xảy đến với chính thể độc đảng ở Việt Nam: Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) đã chính thức kết thúc toàn bộ quá trình rà soát pháp lý, đồng thời thống nhất toàn bộ các nội dung của Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (IPA).

Chọn ‘ăn non’!

Tin tức trên ngay lập tức được phát ra bởi Bộ Công thương – Cơ quan Thường trực trong đoàn đàm phán EVFTA của Việt Nam, sau khi Bộ trưởng Bộ này là Trần Tuấn Anh trở về từ Brussels, Vương quốc Bỉ – nơi đặt trụ sở của EU.

IPA là hiệp định mang nội dung bảo hộ đầu tư và cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước và nhà đầu tư (ISDS), được tách riêng ra khỏi Hiệp định FTA giữa Việt Nam và EU. Về thực chất, đây là phương án 2 trong hai phương án – được đặt ra bởi hai đoàn đàm phán của EU và Việt Nam – nhằm kết thúc quá trình rà soát pháp lý EVFTA được đặt ra trước đây.

Trong đó, phương án 1 là không có IPA nhưng thời gian đàm phán sẽ lâu hơn một số tháng, có thể là nhiều tháng hoặc vài ba năm. Sau một thời gian đôn đáo vận động và đã phải liên tục cử các đoàn ‘quốc tế vận’ của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Phó thủ tướng Vương Đình Huệ và cả Trưởng ban đối ngoại trung ương Hoàng Bình Quân đi các nước Thụy Sĩ, Bỉ, Slovakia, Séc, Hungary… nhưng vẫn không mang lại kết quả rõ rệt nào, cuối cùng phía Việt Nam đã chọn phương án 2 ‘ăn non’ nhưng không ăn chắc, tức tách rời IPA khỏi EVFTA để EVFTA được kết thúc rà soát pháp lý sớm hơn và do vậy cũng mang lại hy vọng được thông qua nhanh hơn.

Tuy nhiên trong tiến trình thực tế, EVFTA đã trở thành một ‘con rùa’ mà đã khiến giới chóp bu Việt Nam không ít lần công khai bày tỏ thái độ sốt ruột và cả ‘lên máu’.

Mất 2 năm rưỡi chỉ để rà soát pháp lý!

Mặc dù đã kết thúc giai đoạn đàm phán từ tháng Mười Hai năm 2015 – thời điểm trùng với chiến dịch ‘toàn đảng, toàn quân, toàn dân tiến đến đại hội 12’ và được hệ thống tuyên giáo cùng báo đảng Việt Nam khoa trương hết lời về ‘sẽ phê chuẩn EVFTA ngay trong năm 2016’, phải mất đến hai năm rưỡi sau đó Hiệp định ngổn ngang này mới kết thúc giai đoạn rà soát pháp lý, trong khi thông thường khoảng thời gian rà soát pháp lý đối với những Hiệp định tương tự chỉ mất từ 6 tháng đến 1 năm.

Sau khi TPP đổ vỡ lần đầu vào đầu năm 2017 do Mỹ chính thức rút khỏi Hiệp định này, chính thể Việt Nam chỉ còn EVFTA là Hiệp định Thương mại mang lại lợi lộc nhiều nhất ứng với đà xuất siêu của Việt Nam sang châu Âu lên đến 25 tỷ USD mỗi năm – gần bằng giá trị nhập siêu lên đến 30 tỷ USD hàng năm (chỉ tính theo đường chính ngạch, chưa kể khoảng 20 tỷ USD nhập siêu theo đường tiểu ngạch) của Việt Nam từ Trung Quốc.

Giá trị xuất siêu hàng năm của hàng Việt Nam vào thị trường EU là gần tương đương với giá trị xuất siêu lên tới gần 30 tỷ USD mỗi năm của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Mỹ. Do vậy, giá trị của bản Hiệp định EVFTA có cũng có giá ngang bằng với tương lai của Hiệp định Thương mại song phương Việt – Mỹ mà giới chóp bu Hà Nội đang hết sức thèm muốn. Một chuyến công du Mỹ vào cuối tháng Sáu năm 2018 của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ – được trực tiếp Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo – dường như nhắm đến mục tiêu cố gắng thêm một lần nữa giành được thiện cảm thương mại của người Mỹ, sau chuyến đi ‘quốc tế vận’ hoàn toàn không thành công của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc với Tổng thống Donald Trump tại Washington vào tháng Năm năm 2017 mà càng đẩy nền kinh tế lẫn ngân sách Việt Nam vào cơn ác mộng mất ngủ kinh niên.

Không phải ngẫu nhiên mà thời kỳ rà soát pháp lý cho EVFTA kéo dài quá lâu như thế.

Tuy cho tới nay phía EU vẫn chưa quá bức xúc với tình trạng thâm hụt Thương mại hai chiều với Việt Nam như việc Tổng thống Mỹ Donald Trump đã liên tục gây sức ép vì Việt Nam đã xuất siêu đến gần ba chục tỷ USD vào thị trường Mỹ hàng năm, nhưng nguồn cơn đầu tiên của sự chậm chạp EVFTA có lẽ thuộc về ‘thẻ vàng hải sản’ – phản ánh một quá trình hành vi rất thiếu ‘fair-play’ của Việt Nam đối với EU.

‘Thẻ vàng’ và gian lận thương mại

Mặc dù hoạt động “đánh bắt xa bờ” – mà thực chất là đánh bắt hải sản trái phép trên vùng biển các nước khác như Malaysia và Indonesia – của ngư dân Việt Nam đã diễn ra từ nhiều năm qua và đã bị EU nghiêm khắc đặt ra với giới chức Việt Nam từ năm 2012, nhưng chỉ đến tháng Mười năm 2017, EU mới lần đầu tiên “rút thẻ vàng”. Trong khi từ năm 2015, Thái Lan và Đài Loan đã bị cơ chế này cảnh cáo, còn hiện thời là Philipppines.

Bản thông cáo báo chí “rút thẻ vàng” của EU được phát ra chỉ khoảng một tháng sau khi Chính phủ Đức đột ngột tuyên bố tạm thời đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với chính thể độc đảng ở Việt Nam. Sự kiện chấn động và đầy cay đắng đối với giới chóp bu Hà Nội ấy lại là hậu quả đương nhiên của vụ “bắt cóc Trịnh Xuân Thanh” tại Berlin vào tháng 7/2017.

Vào tháng Năm năm 2018, khi đoàn Thanh tra của Ủy ban châu Âu (EC) thuộc EU đến làm việc với các cơ quan chức năng Việt Nam về việc xem xét thẻ vàng hải sản, giới tuyên giáo Nhà nước – với một não trạng đã trở thành ‘ung thư di căn’ – đã vội vã dự đoán rằng EU sẽ mau chóng gỡ bỏ hình phạt thẻ vàng này.

Tuy vậy chẳng bao lâu sau đó, chính Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã phải thừa nhận rằng đoàn Thanh tra của Ủy ban châu Âu đã chính thức kéo dài cảnh báo thẻ vàng hải sản thêm 6 tháng, tức tới tháng 1/2019, nhưng sau đó không phải sẽ gỡ thẻ vàng, mà sẽ đánh giá lại sau đó để quyết định rút hay tiếp tục cảnh báo.

4 lý do dẫn đến việc EU tiếp tục cảnh báo thẻ vàng với hải sản Việt Nam: việc truy xuất nguồn gốc hải sản xuất khẩu vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu; Tái diễn tình trạng tàu cá Việt Nam đánh bắt trái phép tại vùng biển các nước Đông Nam Á (Thái Lan, Malaysia, Indonesia); Hệ thống giám sát tàu cá chưa đầy đủ; Cần tăng nặng chế tài xử lý vi phạm khi xây dựng các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật thủy sản.

Cộng hưởng với tình trạng nhôm và thép Việt Nam xuất vào thị trường Mỹ với khối lượng lớn nhưng phần lớn trong số đó lại có nguồn gốc Trung Quốc, rất có thể người Mỹ và EU đã phải đặt vấn đề một cách nghiêm trọng về hành vi gian lận thương mại của các doanh nghiệp và cả giới quản lý điều hành ở Việt Nam, để từ đó phải xem xét lại có nên thông qua nhanh chóng Hiệp định Thương mại song phương Việt – Mỹ và EVFTA hay không.

Trịnh Xuân Thanh được ‘ăn theo’ nhân quyền như thế nào?

Rõ ràng là so với những năm trước, thái độ và hành động của EU đối với chính thể độc đảng ở Việt Nam đã không còn mềm dẻo mà trở nên cứng rắn hơn hẳn.

Hành động cứng rắn của EU còn có thể liên quan mật thiết đến việc chính thể Việt Nam đã làm mất hoàn toàn ‘lòng tin chiến lược’ của các nước trong khối EU qua vụ ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’, cùng thái độ lấp liếm đầy thủ đoạn của Hà Nội mà không một lời xin lỗi người Đức.

Vào tháng Hai năm 2018, trang Borderlex của Châu Âu đã chính thức cho biết để thông qua EVFTA, “EU khăng khăng yêu cầu Việt Nam phê chuẩn ba hiệp ước của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về tự do lập hội, quyền tổ chức và thương lượng tập thể, và việc bãi bỏ lao động cưỡng bức dường như đã mang lại kết quả”, và khẳng định “Phía sau việc trì hoãn này (EVFTA) còn có một số lý do chính trị như: ưu tiên đưa ra thỏa thuận của EU với Nhật Bản, cuộc đụng độ ngoại giao giữa Berlin và Hà Nội, và Liên minh châu Âu nhấn mạnh rằng Việt Nam cần tôn trọng hơn các quyền con người và quyền lao động”.

Cũng vào tháng Hai năm 2018 và trước khi phiên tòa xử Hội Anh Em Dân Chủ diễn ra, báo đảng Việt Nam đã ồn ào khoa trương về việc Việt Nam đang đôn đốc vận động Ủy ban Châu Âu hoàn tất bản thảo của EVFTA vào cuối tháng 3/2018 để trình Hội đồng Châu Âu và sau đó trình Nghị viện Châu Âu với hy vọng “sẽ thông qua vào mùa thu năm 2018”. Tuy nhiên cho đến cuối tháng Năm năm 2018 vẫn không có bất kỳ tin tức nào về “hoàn tất bản thảo”.

Đến đầu tháng Sáu năm 2018 thì sự việc trở nên rõ hơn nhiều. Tờ Nhật báo Frankfurt Phổ thông (Frankfurter Allgemeine Zeitung – FAZ) của Đức cho biết Trịnh Xuân Thanh sẽ được trả tự do “trong thời gian tới đây”. Dựa trên nhiều nguồn tin, tờ nhật báo này nói rằng Chính phủ Hà Hội đã cam kết với nước Đức sẽ cho phép Trịnh Xuân Thanh xuất cảnh sang nước Cộng Hòa Liên bang Đức sau khi vụ xét xử một người giúp đỡ bắt cóc ở Berlin đi đến kết thúc.

Cũng theo thông tin của nhật báo này, một phần của sự nhượng bộ từ phía Việt Nam cũng là việc trả tự do cho luật sư Nguyễn Văn Đài.

Với những vụ trả tự do như thế, Hà Nội hy vọng sẽ cải thiện được quan hệ kinh tế với nước Đức và EU, báo FAZ tường thuật. Đại diện EU cũng nói với Hà Nội rằng việc phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do với Việt Nam vào đầu năm 2019 sẽ phụ thuộc vào sự chấp thuận của Đức trong Hội đồng Châu Âu. Thuộc vào trong số những nhượng bộ về ngoại giao của Việt Nam cũng là việc cải thiện những điều kiện giam giữ cho các Tù nhân chính trị khác.

Từ giữa năm 2016, bàn cờ đối thoại và đàm phán về nhân quyền đã dần chuyển từ tay người Mỹ sang Liên minh Châu Âu. Còn sau vụ ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’, có vẻ như người Đức duy lý, rất nguyên tắc và theo phương châm cứng rắn đang cầm chịch và cầm đằng chuôi trong phần lớn hoạt động và nội dung đàm phán nhân quyền, thậm chí đàm phán chi tiết ‘một đổi một’ với giới con buôn Hà Nội.

Có thể cho rằng nếu yêu cầu kiêm điều kiện của Đức về việc phải thả Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Thu Hà không được thỏa mãn, với tư cách là đầu tàu kinh tế và cũng là một trong những đầu tàu chính trị trong khối EU, Đức sẽ thẳng tay phủ quyết EVFTA và còn thể đưa vụ ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’ theo hướng quốc tế hóa và tạo ra thế triệt buộc đối với chính thể và một số quan chức cao cấp của Việt Nam.

Hai cái tên – một Trịnh Xuân Thanh quan chức tham nhũng nhưng được ‘ăn theo’ nhân quyền, và một Nguyễn Văn Đài nhà hoạt động nhân quyền – rõ ràng là những bằng chứng đầu tiên cho thấy chính thể độc trị ở Việt Nam bắt đầu phải nhượng bộ Chính phủ Đức nói riêng và EU nói chung về Pháp quyền và Nhân quyền.

P.C.D.

Tác giả gửi BVN

This entry was posted in Tản Mạn. Bookmark the permalink.