Nhận xét Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương – CPTPP

Vũ Ngọc Yên

Bộ trưởng Thương mại và Kinh tế của 12 nước (Canada, Brunei, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Austrialia, Mỹ, Nhật Bản và Việt Nam) đã chính thức ký Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP (Trans – Pacific Partnership) vào ngày 4/2/2016, tại thành phố Auckland, Tân Tây Lan (New Zealand). TPP là một hiệp định thương mại tự do (FTA) chủ trương liên kết các nền kinh tế phát triển và đang phát triển thuộc khu vực Châu Á – Thái Bình Dương thành một cộng đồng mậu dịch xóa bỏ các loại thuế quan và rào cản hàng hóa giữa các nước thành viên. Nhưng đầu năm 2017, ngay trong ngày nhậm chức, tân Tổng thống Mỹ Donald Trump dựa trên tư tưởng chỉ đạo nước Mỹ trước hết (American first) đã tuyên bố Mỹ rút khỏi TPP vì Hiệp định là một “thảm họa” cho Mỹ, Và như vậy thỏa thuận thương mại tự do tham vọng nhất thế giới coi như đã chết. Theo lý thuyết, 11 thành viên còn lại có thể tái thiết TPP, nhưng Thủ tướng Nhật Shinzo Abe đã bi quan cho rằng sẽ là “vô nghĩa” nếu không có Hoa Kỳ Khoảng trống từ việc Hoa Kỳ rút ra khỏi Hiệp định là rất lớn, và không dễ lấp đầy.

TPP biến thành CPTPP không có Mỹ

Sau khi Hoa Kỳ từ bỏ Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), 11 nước còn lại là Canada, Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Australia, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia và Việt Nam, đã tiếp tục đàm phán nhằm cố gắng duy trì những mục tiêu đầy tham vọng của hiệp định TPP ban đầu và cuối cùng đạt được thỏa thuận.

Ngày 8/3/2018 tại Santiago, Chile (Chí Lợi) các bộ trưởng kinh tế, thương mại của 11 nước đã chính thức ký kết thỏa ước với tên gọi mới là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and Progressive Trans Pacific Partnership, CPTPP). Tại lễ ký kết này, các bộ trưởng đã thông qua Tuyên bố chung chia sẻ quan điểm cho rằng, Hiệp định CPTPP sẽ giúp tăng cường mối liên kết cùng có lợi giữa các nền kinh tế thành viên và thúc đẩy thương mại, đầu tư và tăng trưởng kinh tế trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Hiệp định này thể hiện cam kết chung của các nước thành viên đối với hệ thống thương mại hiệu quả, dựa trên quy tắc và minh bạch, có tính mở đối với tất cả các nền kinh tế sẵn sàng chấp nhận các nguyên tắc này. Bộ trưởng Chí Lợi Heraldo Muñoz đánh giá sự kiện là tín hiệu quan trọng chống lại chủ nghĩa bảo hộ và chiến tranh thương mại.

CPTPP sẽ có hiệu lực sau 60 ngày khi có ít nhất 6 quốc gia tham gia hoàn tất các thủ tục phê chuẩn. Hiệp định này về cơ bản giữ nguyên nội dung của TPP nhưng cho phép các nước thành viên tạm hoãn khoảng 20 nghĩa vụ so với TPP để bảo đảm sự cân bằng trong bối cảnh mới.

CPTPP được coi là một hiệp định thương mại tự do (FTA) tiêu chuẩn cao, không chỉ đề cập tới các lĩnh vực truyền thống như cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa, mở cửa thị trường dịch vụ, sở hữu trí tuệ, hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại… mà còn xử lý những vấn đề mới, phi truyền thống như lao động, môi trường, mua sắm của chính phủ, doanh nghiệp nhà nước… Ngoài ra, Hiệp định này đặt ra các yêu cầu cao về minh bạch hóa cũng như đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp có tính ràng buộc và chặt chẽ. Riêng về mở cửa thị trường, các nước tham gia Hiệp định đồng ý xóa bỏ cho nhau gần như toàn bộ thuế nhập khẩu theo lộ trình; tự do hóa dịch vụ và đầu tư trên cơ sở tuân thủ pháp luật của nước sở tại, bảo đảm sự quản lý của nhà nước, từ đó tạo ra cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp và lợi ích mới cho người tiêu dùng của các nước thành viên.

Hậu quả Mỹ rút khỏi TPP

Chuyển dịch quyền lực sang Trung cộng

Chính quyền Mỹ khẳng định Á Châu – Thái Bình Dương là trọng tâm của kinh tế và chiến lược thế giới trong thế kỷ 21 nên Mỹ muốn xây dựng mối liên kết sâu rộng với một khu vực đang phát triển đồng thời tăng cường sự hiện diện tại khu vực thông qua quan hệ thương mại. Các chuyên gia kinh tế Hoa Kỳ đánh giá TPP là “Minh ước thương mại của thề kỷ 21” và sẽ là công cụ tăng cường sức mạnh của Hoa Kỳ trong chiến lược xoay trục sang Châu Á. Do đó, sự sụp đổ của TPP đã tạo ra một khoảng trống ở châu Á và vô hình trung cũng đã đẩy các đối tác ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương ra xa Mỹ. Trung cộng đã chờ cơ hội này sàng đảm nhận vai trò lãnh đạo kinh tế ở châu Á qua các dự án như Hiệp định Đối tác kinh tế Toàn diện Khu vực – RCEP, Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng Á Châu (Asian Infratructure Invesment Bank – AIIB) và Sáng kiến Con đường tơ lụa mới (New Silkroad: one bell, one road) gồm hai phần: Vành đai (Hành lang) kinh tế trên bộ và Con đường tơ lụa trên biển.

Thị trường CPTPP không lớn, ít hấp dẫn

TPP là thị trường với 800 triệu dân có tổng sản lượng nội địa (GDP) khoảng 27.000 tỷ USD và chiếm 40% kim ngạch thương mại toàn cầu. Mỹ là thành viên lớn nhất của TPP. Hiệp định CPTPP tạo ra một khu vực tự do thương mại với thị trường 463 triệu dân với tổng sản lượng nội địa khoảng 10. 000 tỷ USD, chiếm khoảng 13,5% sản lượng kinh tế thế giới (GDP). Nhật Bản là thành viên lớn nhất trong CPTPP.

Với sự rút lui của Mỹ, quy mô thị trường của CPTPP bị thu hẹp đáng kể, từ chỗ chiếm 40% xuống còn 13,5% GDP toàn cầu so với TPP. Vì vậy CPTPP sẽ ít hấp dẫn hơn TPP, đồng thời đem lại ít khả năng tăng sản lượng và xuất khẩu hơn. Dự tính đến năm 2030, GDP của Việt Nam có thể tăng 3,6% nhờ TPP so với 1,1% cho trường hợp CPTPP. Tác động lớn của TPP chủ yếu có được do tỉ trọng lớn về thương mại quốc tế giữa các đối tác, vì năm 2017 Mỹ chiếm tới 19% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.

CPTPP

TPP

GDP

1,1

3,6

Xuất khẩu

4,2

19,1

Nhập khẩu

5,3

21,7

Nguồn: Ngân hàng Thế giới 2018, Washington D.C.

Tác động kinh tế từ CPTPP

Trong bản báo cáo đánh giá tác động kinh tế và phân bổ thu nhập của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) của Ngân hàng Thế giới, tổng kim ngạch xuất khẩu dự báo đến năm 2030 sẽ đạt 311,1 tỉ US$ so với mức ước tính 179,5 tỉ US$ theo mô phỏng của năm 2017. Tỉ trọng theo quốc gia của hàng xuất khẩu của Việt Nam lớn nhất tính đến năm 2030 là Mỹ, chiếm 17,4% tổng kim ngạch xuất khẩu, tiếp đến là Trung Quốc với 13,2%, Liên minh châu Âu là 16,7% và xuất khẩu sang các nước CPTPP sẽ tăng từ 54 lên 80 tỉ US$, chiếm 25% tổng lượng xuất khẩu.

Với CPTPP, mức tăng trưởng cao nhất về sản lượng dự tính sẽ thuộc về các ngành thực phẩm, đồ uống, thuốc lá; may mặc, hàng da; dệt may cùng với tăng trưởng vừa phải ở một số tiểu lĩnh vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Xuất khẩu tăng dự kiến sẽ đạt cao nhất ở các ngành thực phẩm, đồ uống, thuốc lá; may mặc, hàng da; hóa chất, sản phẩm da và nhựa; thiết bị, phương tiện vận tải; máy móc, thiết bị khác. Nhập khẩu dự kiến sẽ tăng ở tất cả các ngành. Ngành thủy sản khả quan hơn, ngành nông nghiệp, sữa, mía đường và thức ăn chăn nuôi sẽ chịu áp lực cạnh tranh lớn hơn khi nguồn cung từ các nước thành viên tham gia thị trường Việt Nam. Các sản phẩm thịt nhập ngoại có chất lượng tốt hơn cũng khiến các doanh nghiệp sản xuất trong nước gặp khó khăn.

Bất động sản được dự đoán sẽ nhận nhiểu đầu tư của nước ngoài, với nhu cầu lớn như khu công nghiệp, căn hộ cao cấp, biệt thự, nhà phố hiện đại, cũng như văn phòng cho thuê. Riêng các khu công nghiệp, tác động của CPTPP sẽ không quá lớn. Trước đây, sự kỳ vọng vào thị trường tiêu thụ khổng lồ từ Mỹ thúc đẩy các doanh nghiệp lên kế hoạch đầu tư và mở rộng sản xuất, nhưng hiện nay các dự án này tạm hoãn.

Tác động phân bố thu nhập

Theo Ngân hàng Thế giới, tỉ lệ nghèo năm 2014 là 11,6%, nếu tính bằng tỉ lệ người nghèo theo mức chuẩn nghèo 3,20$/ngày PPP. Con số này gần bằng với tỉ lệ 13,5% khi sử dụng mức nghèo quốc gia của Việt Nam. Ngược lại, nếu sử dụng mức chuẩn nghèo là 5,50$/ngày PPP, tỉ lệ nghèo sẽ là 36,3%.

Thay lời kết

Về kinh tế, việc tham gia CPTPP là có lợi. Hiệp định sẽ góp phần vào việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa cũng như thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành, lĩnh vực mà Việt Nam đang có nhu cầu phát triển.

CPTPP là cơ hội nhưng cũng tạo nhiều thách thức. Nhiều chuyên gia quan ngại các quy định bảo vệ lao động và môi trường sẽ không được tuân thủ cũng như tình trạng doanh nghiệp bị phá sản sẽ gia tăng vì chưa đủ khả năng cạnh tranh. CPTPP có thể mang lại một số tác động tích cực trong lãnh vực thương mại nhưng phúc lợi thay vì phân chia cho quảng đại dân chúng, thì phần lớn lọt vào túi cán bộ lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Hợp tác, hội nhập kinh tế là điều kiện tất yếu cho tăng trưởng kinh tế, phát triển thương mại và cải thiện dân sinh. Nhưng tăng trưởng trong 30 năm qua chính sách gọi là “đổi mới” của Đảng CSVN đã dẫn đến nhiều tai họa cho đất nước: tài nguyên cạn kiệt, môi trường bị hủy hoại và tham nhũng. Một nước Việt Nam hòa bình, thịnh vượng, công bằng và văn minh chỉ có thể thực hiện được trong một chế độ tự do, dân chủ pháp trị.

V.N.Y.

Tác giả gửi BVN.

This entry was posted in Quốc Tế. Bookmark the permalink.