Phạm Chí Dũng
Việt Nam – Cali Today News – Khác hẳn với lời ta thán về nguy cơ “nợ công nếu tính đủ thì đã vượt trần” vào cuối năm 2016 và “sụp đổ tài khóa quốc gia” vào đầu năm 2017, đến đầu năm 2018, Thủ tướng Việt Nam – ông Nguyễn Xuân Phúc – bất thần có đến hai lần yêu cầu Tổng cục Thống kê “tính lại GDP”, với lý do “Hàng vạn cái nhà lầu, hàng trăm chiếc ô tô đăng ký mỗi tháng ở TP HCM, Hà Nội mà chả tính được cái gì, bỏ rơi hết. Nếu cộng thêm được 30% nữa thì không phải 5 triệu tỉ đồng; mẫu số lớn lên, quy mô nợ công sẽ giảm xuống, có tiền cho đầu tư phát triển”, và giải thích thêm về tăng trưởng: “GDP đạt trên 5,1 triệu tỉ đồng. Con số này rất quan trọng, từ tổng GDP này làm cho nợ công thời điểm này còn 61,3% GDP, như vậy, so với đầu năm 2016 là chúng ta kịch trần 64,5 – 64,6% GDP”.
Hai lần yêu cầu trên xảy đến tại hội nghị tổng kết của Bộ Tài chính và tại hội nghị tổng kết của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho dù bị nhiều dư luận phản ứng và nghi ngờ về “GDP tăng trưởng có cánh” tại kỳ họp quốc hội cuối năm 2017 mà ông Phúc đã phải trần tình là ông “không can thiệp vào việc tính GDP”.
Ngay sau hội nghị trên, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm thông báo rằng cơ quan này sẽ điều chỉnh quy mô GDP trên cơ sở kết quả của Tổng điều tra nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2016, Tổng điều tra kinh tế năm 2017, và cơ quan thống kê sẽ trình Thủ tướng phê duyệt để thực hiện đề án thống kê khu vực kinh tế chưa được quan sát, nhằm thu thập đầy đủ thông tin của các hoạt động kinh tế thực tế đang diễn ra và ảnh hưởng đến quy mô nền kinh tế nhưng chưa được đo lường và tính toán đầy đủ trong GDP.
Như vậy, câu chuyện “tính lại GDP” không chỉ còn là nói miệng mà đã trở nên “nghiêm trọng” thật sự khi đã được chỉ đạo bằng văn bản. Động tác này mang ý nghĩa gì và có lợi cho ai?
Theo Luật về Nợ công, tỷ lệ nợ công quốc gia được tính theo công thức: nợ công/GDP. Mẫu số GDP càng lớn thì tỷ lệ nợ công càng nhỏ và do đó càng làm cho tình trạng vay nợ (vay trong nước và vay nước ngoài) của Chính phủ lẫn các doanh nghiệp “an toàn” hơn, đồng thời có thêm lý do để Chính phủ báo cáo và công bố về thành tích “bảo đảm an toàn nợ công” của mình.
Nhưng như thế nào là “an toàn”?
Một nguyên tắc lẫn thông lệ quốc tế đang được vận dụng ở Việt Nam là tỷ lệ nợ công sẽ đạt ngưỡng nguy hiểm ở mức 65% GDP. Với báo cáo của các bộ ngành kinh tế và Chính phủ thì tỷ lệ nợ công ở Việt Nam đã gần đụng ngưỡng nguy hiểm 65% GDP đó, mà như vậy thì sẽ rất khó có lý do để tiếp tục vay, đẩy mạnh vay nhằm chi dùng cho “đầu tư phát triển”, chẳng hạn như chi cho các công trình xây dựng trạm thu phí BOT – một dạng vay vốn ODA vô tội vạ thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Bộ trưởng giao thông vận tải Đinh La Thăng mà còn để lại hậu quả trầm kha 100% “chỉ định thầu” (về thực chất là tiêu cực) và gây phản kháng xã hội ngày càng rộng lớn cho đến ngày nay.
Vậy là trong cái khó ló “cái khôn”. Thủ pháp kinh tế – chính trị quá sức đơn giản là chỉ cần lấy bút, làm vài phép tính, cộng thêm 30% phần kinh tế phi chính thức vào GDP thì ngay lập tức tỷ lệ nợ công sẽ giảm đến 15%, tức chỉ còn khoảng 50% GDP, trở thành một con số còn bóng lộn hơn cả báo cáo nợ công “chỉ có 55% GDP” thời Nguyễn Tấn Dũng.
Khi đó, các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước cùng Chính phủ sẽ tha hồ vay được ít ra 15% GDP nữa, tương đương khoảng 30 tỷ USD, chẳng hạn “phục vụ dự án trọng điểm sân bay Long Thành và đường bộ cao tốc Bắc Nam”. Hai dự án này lần lượt chiếm vốn đầu tư là 18 tỷ USD và hơn 10 tỷ USD, cộng lại xấp xỉ với “quota” 30 tỷ USD mà Chính phủ có thể vay trực tiếp hoặc bảo lãnh vay nếu thành công trong việc “tính lại GDP”. Cơ hội để các nhóm lợi ích “ăn tàn phá hại” vốn ODA và những nguồn vốn vay khác sẽ lại mở ra không khác gì thời Nguyễn Tấn Dũng.
Và nếu kịch bản “tính lại GDP” thành công theo “yêu cầu đặc biệt” của Thủ tướng Phúc, gần 100 triệu dân Việt sẽ càng có cơ hội đội thêm gánh nặng nợ nần ngập đầu cho hiện tại và cho rất nhiều đời con cháu mai sau.
Cần nhắc lại, vào đầu năm 2017, một phân tích của Tiến sĩ Vũ Quang Việt – cựu vụ trưởng vụ thống kê của Liên Hiệp Quốc – đã cho biết nợ của 3.200 doanh nghiệp nhà nước theo điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2014 là 4,9 triệu tỷ đồng (231 tỷ USD), gấp nhiều lần con số 1,5 triệu tỷ đồng mà Bộ Tài chính đưa ra chỉ cho một số tập đoàn và công ty lớn. Ước tính thêm cho thấy năm 2016, nợ của doanh nghiệp nhà nước là 324 tỷ USD, bằng 158% GDP.
Cộng cả nợ chính phủ và nợ doanh nghiệp nhà nước sau khi trừ đi phần chính phủ bảo lãnh trùng lặp, tổng số nợ năm 2016 là 431 tỷ USD, lên đến 210% GDP, gấp hơn 3 lần tỷ lệ nợ công “gần 65% GDP” mà các báo cáo của bộ ngành và của chính phủ Nguyễn Xuân Phúc luôn “tuyên giáo”.
P.C.D.