Thiện Tùng
Tỉnh Vĩnh Phúc chuẩn bị kỷ niệm 100 ngày sinh Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú Kim Ngọc (10/10/1917-10/10/2017). Nhân dịp này, giới báo chí, truyền thông ca ngợi Kim Ngọc hết lời, xem ông là “ân nhân” là vua “khoán chui” trong Nông nghiệp vào hai năm 1966-1968 ở tỉnh Vĩnh Phú (*). Ông bị Đảng của ông lên án chống đường lối hợp tác hóa nông nghiệp.
Kim Ngọc sinh 10/10/1917, mất 26/05/1979
Theo Hiệp định Genève năm 1954, Việt Nam tạm thời chia hai miền Nam – Bắc. Lúc bấy giờ, Việt Nam còn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Phần lớn ruộng đất còn nằm trong tay địa chủ, phú nông. Có lẽ vì vậy, chính phủ cả hai miền đều chú tâm đến nông thôn và nông dân.
Vào thập niên 50, Miền Bắc đã có chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH), tiến hành “Cải cách ruộng đất” sớm, Miền Nam chưa có chính phủ, vừa phải tiến hành Trưng cầu dân ý, lập chính phủ Việt Nam Cộng hòa (VNCH), vừa phải lo định cư cho hơn 900.000 di dân từ miền Bắc vào, mãi đến năm 1957, Chính phủ VNCH mới ra chỉ vụ 57 và tiến hành “Cải cách điền địa”.
Cải cách ruộng đất ở miền Bắc bằng cách trừng phạt, tước đoạt ruộng đất của những người bị xem là “địa chủ, phú nông” để tạm cấp cho nông dân. Rồi liến sau đó tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp, biến ruộng đất của nông dân thành ruộng đất tập thể hợp tác xã (HTX), lấy HTX làm đơn vị sản xuất nông nghiệp, người nông dân trở thành xã viên HTX, lao động tính công điểm. Kiểu “cha chung không ai khóc”, năng suất lao động kém, đói khổ.
Hồ Chí Minh dùng khăn tay lau nước mắt trước đám đông trong Cải cách ruộng đất
Cải cách điền địa ở miền Nam làm ngược lại với miền Bắc, Chính phủ VNCH ra chỉ vụ 57 (ban hành 1957) với bốn nội dung:
-Thương lượng mua đất địa chủ với giá thấp, trả dần theo kỳ hạn rồi phân chia, cấp bằng khoán cho hộ nông dân, giữ tập truyền, lấy hộ nông dân làm đơn vị sản xuất nông nghiệp; biến địa chủ, phú nông trở thành những nhà tư sản, thúc đẩy phát triển công nghiệp, dịch vụ.
– Cho nông dân vay Nông tín cuộc với lãi cực thấp, mang tính chất tượng trưng.
– Làm thủy lợi, khai hoang phục hóa cải tạo ruộng vườn.
– Từng bước thay giống lúa mùa bằng giống ngắn ngày để tăng vụ, tăng năng suất.
Ngô Đình Diệm sinh ngày 03/01/1901, Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa (26/10/1955 – 02/11/1963 = 8 năm, 7 ngày)
Thời Đệ nhất VNCH (1955-1963) do ông Ngô Đình Diệm làm Tổng thống, Công và Nông nghiệp song hành phát triển, làm thị trường cho nhau. Nông nghiệp chẳng những đảm bảo lúa gạo cho tiêu dùng mà còn thừa để xuất khẩu với số lượng đáng kể.
“Khoán chui”
Cần phải “cải tử hoàn sinh” cho xã viên các hợp tác xã nông nghiệp trong tỉnh, ngày 10/09/1966, Bí thư Kim Ngọc và tập thể tỉnh ủy Vĩnh Phú âm thầm ra nghị quyết số 68 về “Một số vấn đề quản lý lao động nông nghiệp trong các hợp tác xã hiện nay”. Nghị quyết này đề ra nội dung, hình thức khoán: Ban đầu khoán khâu cho từng hộ hoặc nhóm, thấy quá phức tạp, sau đó khoán trắng ruộng đất cho từng hộ. Vô hình trung là trả ruộng đất lại cho từng hộ nông dân quản lý, sản xuất, coi hộ nông dân là đơn vị cơ bản trong sản xuất nông nghiệp theo tập truyền. Nông dân phấn khởi, thi nhau sản xuất, sản lượng tăng vọt, đời sống ổn định, từng bước nâng cao. Khi tham quan, nhà thơ Chế Lan Viện nhả ra mấy câu thơ: “Cây xanh ngắt đất bạc màu Vĩnh Phúc / Ôi cái thuở lòng ta yêu tổ quốc / Hạnh phúc nào chẳng hạnh phúc đầu tiên”.
Khi phát hiện ra, ngày 6/11/1968, lãnh đạo Trung ương (TW) về Vĩnh Phú mở cuộc họp phê phán nặng nề chủ trương “khoán hộ” (khoán trắng). Hội nghị kết luận: “Việc khoán ruộng cho hộ đã dẫn đến hậu quả tai hại là phát triển tư tưởng tự tư tự lợi, làm phai nhạt ý thức tập thể của xã viên, thủ tiêu phong trào thi đua yêu nước trong hợp tác xã. Kìm hãm và đẩy lùi cách mạng kỹ thuật trong nông nghiệp; giảm nhẹ vai trò của lao động tập thể xã hội chủ nghĩa, phục hồi và phát triển lối làm ăn riêng lẻ, đẩy hợp tác xã sản xuất nông nghiệp vào con đường thoái hóa và tan rã. Giao khoán ruộng đất của HTX cho hộ, trong một số HTX đang diễn ra tình trạng chia lại ruộng đất. Khoán sản lượng cho hộ, một số HTX đã biến mình thành người phát canh thu tô đối với xã viên. Trong nhiều HTX, phương thức sản xuất cá thể đang lấn át phương thức sản xuất tập thể. Ở một số địa phương, đường lối và nguyên tắc hợp tác hóa nông nghiệp của Đảng bị vi phạm nghiêm trọng” (trích tài liệu lưu trữ của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Phúc).
Dựa vào kết luận cuộc họp, chủ trương khoán hộ của Vĩnh Phú bị TW chính thức đình chỉ vào cuối năm 1968, Bí thư tỉnh uỷ Kim Ngọc bị buộc phải kiểm điểm và thừa nhận là “có sai lầm nghiêm trọng trong chủ trương khoán hộ”. Mặc dù phải chấp nhận “sai lầm” và chịu kỷ luật, nhưng ông Kim Ngọc động viên nội bộ và nhân dân trong tỉnh cố duy trì “khoán chui” cho đến khi ông qua đời (26/05/1979).
Vậy là Trung ương Đảng đâu đã chấp nhận mô hình “khoán” của Kim Ngọc. Chính không chấp nhận mô hình khoán của Kim Ngọc, năm 1976, Đảng Lao động Việt Nam đổi tên Đảng và tên nước thành Đảng Cộng sản Việt Nam và nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, rồi tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam cả về mặt chính trị và kinh tế:
Về chính trị: Đảng Cộng sản Việt Nam gom hơn nửa triệu “ngụy quyền, ngụy quân” nhốt vào các trại cải tạo; lần lượt giải tán hầu hết các tổ chức, đảng phái đã từng đồng hành với mình trong cuộc kháng chiến, giành độc quyền lãnh đạo.
Về kinh tế: “Để đuổi kịp miền Bắc”, năm 1976, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương cả miền Nam tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa theo mẫu miền Bắc, chuyển nền kinh tế thị trường ở miền Nam vốn mới hình thành sang kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam không dùng từ “tước đoạt”, mà dùng cụm từ “Công hữu hóa và tập thể hóa về tư liệu sản xuất”. Giải thích: Tất cả những gì thuộc đối tượng để người lao động tác động vào tạo ra của cải vật chất… được xem là tư liệu sản xuất, chẳng hạn như nhà máy, hầm mỏ, ruộng đất… và những cơ sở dịch vụ khác. Cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa diễn ra theo trình tự:
–Đánh tư sản mại bản: bao gồm những nhà tư sản kinh doanh có dính líu với nước ngoài và những nhà tư sản dính hoặc dựa chế độ cũ (Việt Nam Cộng hòa). Mở chiến dịch mang tên X.2, tịch thu cả nhà lẫn tài sản của những người bị xem là tư sản mại bản, dưa họ vào vùng kinh tế mới ma thiêng nước độc.
–Cải tạo công và thương nghiệp: Các cơ sở công, thương nghiệp, dịch vụ… hoặc hiến cho Nhà nước hoặc vào làm ăn tập thể hoặc ngưng hoạt động. Không bao lâu, bằng cách này hay cách nọ, nếu không thuộc về quốc doanh hay tập thể thì đều phải đóng cửa. Chỉ thời gian ngắn, quốc doanh và tập thể chiếm toàn bộ thị phần. Tư nhân nếu còn chỉ hoạt động chui, bắt được là tới số.
–Cải tạo nông nghiệp: Khi va vào như vướng phải khối bầy nhầy, mới thấm thía câu “nhất hậu hôn, nhì điền thổ”.
Cùng một thời điểm, triển khai chủ trương cải tạo nông nghiệp trên toàn cõi Nam Việt Nam (từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau). Nhưng TW chọn tỉnh Tiền Giang làm trước một bước. Tỉnh Tiền Giang chọn xã Tân Hội – xã Anh hùng trong chiến tranh – làm HTX thí điểm của tỉnh. Cách tiến hành theo mẫu miền Bắc.
Nông dân ở xã Tân Hội này, hầu như ai cũng có công ít nhiều với cách mạng. Khi đụng vào ruộng đất của họ, họ chẳng sợ gì ai, phản ứng không chừa cặn.
Ngoài cố vấn từ miền Bắc kè bên, cán bộ tỉnh, huyện đều là võ tướng, văn tướng quần như trâu đạp lúa mà chẳng ăn thua. Sau “hội chẩn”, Tỉnh ủy Tiền Giang quyết định dời thí điểm đến ấp Phú Quới, xã Yên Luông, huyện Gò Công – vùng trọng điểm bình định của Việt Nam Cộng hòa trước đây, giao cho tôi trực tiếp chỉ đạo, điều hành. Có lẽ Tỉnh ủy nghĩ rằng, dân vùng địch hậu họ sợ, sẽ ngoan ngoãn vâng theo. Chẳng biết có phải do họ sợ không, vận động họ đưa đất vào HTX nông nghiệp làm ăn tập thể không mấy khó, nhưng với lý này, cớ nọ, họ lao động chiếu lệ, sau một mùa vụ cũng đổ vỡ.
Ở Gò Công, chúng tôi ngưng làm HTX nông nghiệp, tiến hành làm đại trà “Tổ Đoàn kết Sản xuất Nông nghiệp”, ổn định được đời sống nông dân, đủ sản phẩm nông nghiệp giao nộp cho Nhà nước theo qui định. Thấy huyện Gò Công vùng đất nhiễm mặn mà “ăn nên làm ra”, ông Võ Văn Kiệt, Bí thư Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đến Gò Công đến tham quan, ông hỏi tôi: “Đoàn kết sản xuất là làm thế nào?”. Tôi trả lời: “Trả đất lại cho từng hộ nông dân, khuyến khích họ vần đổi công với nhau như các anh làm trong thời kháng Pháp”. Ông Kiệt vỗ vai tôi nói: “Thì ra…”.
Có lẽ để nung các địa phương khác, tỉnh Tiền Giang làm HTX nông nghiệp chẳng ra hồn gì, thế mà TW chỉ đạo tỉnh Tiền Giang mở Đại hội công bố “Hoàn thành về cơ bản hợp tác hóa nông nghiệp”. Khách mời gồm những đoàn đại biểu các tỉnh, thành thuộc khu vực phía Nam, có báo giới, văn giới, sáu Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà thơ Chế Lan Viên đến tụ hội tại hội trường Ấp Bắc. Làm chẳng ra đâu, nhưng tổng kết nghe cũng khá, từng hồi từng chập pháo tay nổ giòn. Do “sinh non”, những “đứa con” nào ra trước chết trước…, không lâu sau, chúng chết phủi tay.
Có thể nói, trong chiến tranh, nông dân nhiệt tình đi theo Đảng bao nhiêu thì giờ đây họ nhiệt tình chống lại chủ trương Hợp tác hóa nông nghiệp của Đảng bấy nhiêu – từng nơi, từng lúc, họ phản ứng gần như tử thủ, thí mạng cùi giành giữ đất như người điên loạn. Nhiều HTX không cho nó cũng tự rã, trả đất lại cho từng hộ nông dân cho đỡ rắc rối trở thành khuynh hướng chung của các địa phương.
Trước tình thế như vậy, cuối năm 1981, Đảng Cộng sản Việt Nam buộc phải xuống thang, chủ trương khoán sản phẩm trong nông nghiệp, có tên là “khoán 100” – có nghĩa là trả 100% đất lại cho nông dân, rồi căn cứ chất lượng đất, giao khoán sản phẩm trên đầu mẫu (ha) – có lẽ vừa để xả căng, vừa khắc phục nạn thiếu lương thực trầm trọng.
Ấy thế, lúc bấy giờ, ông Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức TW Đảng, còn nói trên diễn đàn: “Khoán sản phẩm trong nông nghiệp là bước thụt lùi cần thiết”. Khi nghe ông Thọ nói thế, tôi liên tưởng đến vở “Tiếng trống Mê Linh”, lúc tướng Tàu thách thi bắn tên, các nữ tướng hăng hái vào cuộc thi. Trưng Trắc nhắc khéo các nữ tướng: “Con hổ trước khi vồ mồi nó thu hình lại”. Vậy có phải ý ông Thọ nói lùi để tiến bạo hơn chớ không phải lùi luôn? Nếu vậy, ông Thọ ngầm nhắc nhở quan chức kiên định lập trường xã hội chủ nghĩa chớ gì?
Nói khoán sản phẩm chớ khoán cái nỗi gì, sản xuất nông nghiệp bao giờ cũng phụ thuộc ngoại cảnh như thời tiết, sâu rầy chẳng hạn, kiểm tra sản lượng được giao chi cho mất công, nếu họ làm không đạt sản lượng theo giao kèo, bằng lý này cớ nọ, họ đổ lỗi khách quan thì rầy rà hay phạt vạ gì họ được, chỉ còn cách thu mua sản phẩm nông nghiệp, nhất là hai mặt hàng lúa và heo. Lúa thì qui định để lại cho mỗi khẩu nông nghiệp 15 giạ, heo thì bán hết cho Nhà nước (cấm giết mổ). Giá lúa và heo do Nhà nước qui định – mua như ăn cướp, bán lại như cho. Để đối phó với sự bất công ấy, nông dân khai gian sản lượng, tìm cách bán chui (lậu) nông sản.
Để ngăn chặn việc mua lùi bán lậu nông sản, Nhà nước chủ trương mở nhiều trạm kiểm soát trên các tuyến đường. Nông sản không lưu thông được, tạo mất cân đối về lương thực, thực phẩm giữa các vùng, nhất là giữa thành thị và nông thôn, gây rối loạn. Về lương thực, thực phẩm ở nông thôn cung lớn hơn cầu, ở thành thị cầu lớn hơn cung. Công nghiệp và nông nghiệp không còn là thị trường của nhau. Công Nông liên minh vốn có lâu đời giờ đây bị rạn nứt, giữa họ với nhau không còn khăng khít.
Tôi xin đưa vào đây chuyện thật như đùa, xem coi nên cười hay mếu:
Khi làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (chức Thủ tướng sau này), ông Đỗ Mười, công du Tây Nam Bộ về, trên xe có chở một bao gạo, trạm xét, lôi bao gạo xuống xe. Lái xe nói: “Gạo người ta cho ông Đỗ Mười đang ngồi đàng trước”. Người ở trạm cười nói: “Đỗ Mười Một chúng tôi cũng tịch thu”.
Xé rào
Trước thực trạng khan hiếm hàng tiêu dùng, nạn thiếu lương thực phải nhập bo bo để cầm hơi, một số vị lãnh đạo địa phương miền Nam xé rào. Chẳng hạn:
Ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bí thư Võ Văn Kiệt (Sáu Dân) chủ trương phân tán dân thành phố đến những vùng có nhiều lúa gạo làm mướn sinh sống. Đồng thời ông xúi bà Ba Thi dùng công xa đi các tỉnh đồng bằng Nam Bộ mua chui gạo với giá thỏa thuận về bán lại (không lãi) cho dân TP Hồ Chí Minh. Ông Sáu Kiệt kể việc này cho tôi nghe: “Tao bảo cô Thi dùng công xa đi mua gạo chui, làm được ít chuyến cô ấy than: Làm kiểu này chắc có ngày em đi tù quá anh Sáu! Tao nói: Nếu cô ở tù tôi đem cơm. Thế là cô ấy vui vẻ đi tiếp và làm được việc, gỡ được nạn đói cho thành phố đông dân nhất nước này”.
Ở tỉnh Long An, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Văn Chính (Chín Cần) chủ trương bù giá vào lương rồi thực hiện thuận mua vừa bán, từng bước xóa bỏ cơ chế tập trung bao cấp. Việc làm này ngoài gây hưng phấn đối với mọi người, còn tăng nguồn thu đáng kể cho địa phương tỉnh Long An.
Ở các tỉnh khác, dần dần xóa bỏ việc cấm chợ ngăn sông, xếp dần các trạm kiểm soát trên các trục giao thông. Nhờ vậy, hàng hóa công nông dần dần đến được với người tiêu dùng theo cơ chế thuận mua vừa bán.
Biết được việc xé rào này, TW phái những đoàn kiểm tra, thanh tra vào cuộc. Biết rõ cớ sự, TW kết luận: “Đây là những việc làm sai trái, nhưng đã lỡ làm, giải quyết được những khó khăn trước mắt, tạm thời không truy cứu, nhưng xem đây là thí điểm”.
Được nước, không đợi TW cho phép, các địa phương bắt chước làm theo, diện mỗi ngày một rộng ra. Đã chịu bung thì chẳng khác vỡ đê, không lực nào có thể cản nổi. Hơn nữa, cản là trái với quy luật, đi ngược lại lòng dân, đố dám. Hàng hóa lưu thông dễ dàng, được bán theo giá thỏa thuận, công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ phát triển, không mấy chốc hình thành cơ chế thị trường trên phạm vi ngày một rộng.
Trước thềm Đại hội 6, Tổng bí thư Lê Duẩn trọng bịnh, ông Trường Chinh vào thị sát tình hình miền Nam. Có lẽ thấy dân miền Nam ăn nên làm ra nhờ kinh tế thị trường, ông về chủ trương viết lại “Báo cáo Chính trị” lồng nội dung “Đổi mới” kinh tế xã hội chủ nghĩa sang kinh tế thị trường trình Đại hội lần 6, được Đại hội chuẩn y.
Vậy là ông Chinh có công hoạch định đường lối kinh tế. Và khi đắc cử Tổng bí thư, ông Linh chỉ là người tổ chức thực hiện.
Người ta lấy làm lạ là từ nền kinh tế thị trường vốn có ở Nam Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam chê nó, cải tạo nó thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dẫn đến thất bại, giờ đây trở lại kinh tế thị trường, rồi gọi là đổi mới, thật là kỳ lạ. Đổi cũ mới đúng chớ?
Người ta cũng ngạc nhiên: Đã là kinh tế thị trường còn định hướng xã hội chủ nghĩa – đã là đĩ mà nói còn trinh! Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ trương không có đích đến, bởi vì mặt này chế ngự mặt kia. Nói nôm na: kinh tế thị trường là chia, kinh tế xã hội chủ nghĩa là cộng, chúng trái ngược nhau – đi đàng Tây mà nói sẽ tới đàng Đông, hoang đường hết chỗ nói! Đi đến chủ nghĩa xã hội ư? – Còn lâu. Đi đến Tư bản hiện đại ư? – Không bao giờ. Có chăng đến Tư bản thân hữu. Thứ nửa nạc nửa mỡ này rất khó xơi! Phải chăng dư lượng câu nói “khoán sản phẩm trong nông nghiệp là bước thụt lùi cần thiết” của Lê Đức Thọ còn đọng lại?!
Có lẽ còn luyến tiếc đường lối kinh tế xã hội chủ nghĩa, mãi đến năm 1988, TW Đảng mới ra nghị quyết số 10/TW khẳng định theo đường lối kinh tế thị trường và công nhận lấy hộ nông dân làm đơn vị kinh tế nông nghiệp.
Lời kết
“Khoán chui” của Kim Ngọc những năm 60 ở Vĩnh Phú miền Bắc và “Xé rào” của lãnh đạo một số địa phương ờ miền Nam là việc làm bình thường. Vì chính các vị đều là đảng viên, cũng là đồng phạm với đảng của mình trong đường lối “Cải tạo xã hội chủ nghĩa”. Có điều các vị hơn những đảng viên khác, còn biết tự trọng, biết đau trong nỗi đau của dân, biết sám hối, biết lấy công chuộc tội với dân. Chỉ cần dân tha thứ là đủ. Giới truyền thông không nên tâng bốc qua đáng làm cho họ thêm xấu hổ, trong đó có tôi.
10/10/2017
T. T.
Chú thích:
(*) Năm 1968 tỉnh Vĩnh Phúc nhập với tỉnh Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú. Thời chiến Vĩnh Phú kết nghĩa với Bến Tre – tôi quê hương Bến Tre nên ít nhiều có theo dõi tình hình biến động ở Vĩnh Phú.
Tác giả gửi BVN.