LS Nguyễn Văn Thân
Vào ngày 24/7, ký giả BBC Bill Hayton đưa tin là Việt Nam phải ra lệnh ngưng khai thác dầu khí ở Lô 136-03 tại bãi Tư Chính (Vanguard Bank) vì Trung Quốc đe dọa là sẽ tấn công các thực thể mà Việt Nam đang chiếm đóng tại Trường Sa. Hayton cho biết là nguồn tin xuất phát từ một công ty khai thác dầu khí tại Châu Á và đã được nhân viên Bộ Ngoại Giao Việt Nam xác nhận. Chỉ vài ngày trước đó, Repsol (công ty mẹ của Talisman Vietnam) là công ty có hợp đồng khai thác dầu khí với Việt Nam đã công bố là tìm thấy một mỏ dầu lớn tại khu vực này. Qua ngày hôm sau, GS Carl Thayer trong cuộc phỏng vấn với Sydney Morning Herald cũng xác nhận là theo nguồn tin của ông từ Hà Nội cho biết thì Việt Nam đã yêu cầu Repsol ngưng khai thác từ ngày 15/7.
Cả Bill Hayton và Carl Thayer đều là những chuyên gia về Việt Nam có uy tín.
Hayton là tác giả của quyển sách ”Vietnam – Rising Dragon (Việt Nam – Con Rồng trỗi dậy) và quyển ”The South China Sea: the Struggle for Power in Asia” (Biển Đông: Cuộc chiến tranh giành quyền lực tại Châu Á).
GS Carl Thayer là một gương mặt quen thuộc của người Việt tại Úc. Ông đã nhiều lần tham gia vào các chương trình hội luận của Đài Truyền Hình SBTN Úc Châu và Vietface TV và làm diễn giả trong các buội hội thảo của do Cộng đồng Người Việt Tự do và Nhóm Nghiên Cứu Văn hóa Đồng Nai Cửu Long tổ chức. Vào tháng 6 năm ngoái, ông nhận lời diễn thuyết về Biển Đông và tình trạng nhân quyền tại Việt Nam trong Đại Hội của Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu tại Dapto. Đó là một trong những lý do mà ông bị nhà cầm quyền CSVN loại ra khỏi chương trình hội thảo về Biển Đông trong trung tuần tháng 7 vừa qua do Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế CSIS (Centre for Strategic and International Studies) của Mỹ tổ chức mà Bộ Ngoại giao Việt Nam là một trong những nhà tài trợ.
Vào tháng Giêng năm nay, Việt Nam công bố là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) đã ký hợp đồng với công ty Exxon Mobile của Mỹ để khai thác mỏ dầu (Lô 118) tại khu vực được gọi là Mỏ khí Cá Voi xanh. Lô 118 này nằm cách bờ biển Quảng Nam ở miền Trung khoảng 88 km tức trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam (1 hải lý bằng khoảng 1,85 km; 200 hải lý tương đương với 370 km). Đây là mỏ khí được coi như lớn nhất ở Việt Nam ước lượng có tới 150 tỷ mét khối với vốn đầu tư hơn 10 tỷ Mỹ kim. Nhưng lô 118 cũng nằm trong phạm vi bản đồ ”đường lưỡi bò” của Trung Quốc.
Trong tháng 6, dư luận nóng lên vì việc Tướng Phạm Trường Long Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc thình lình cắt ngắn chuyến viếng thăm Việt Nam. Tân Hoa Xã bất ngờ đưa tin là Tướng Long đã nói thẳng với lãnh đạo Việt Nam là “toàn bộ các đảo ở Biển Nam Hải đã thuộc lãnh thổ Trung Quốc kể từ thời thượng cổ.” GS Carl Thayer cũng cho biết là Tướng Long đã yêu cầu Việt Nam ngưng mọi hoạt động khảo sát dầu khí.
Nhưng chỉ sau đó không lâu vào đầu tháng 7, Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Phạm Bình Minh đã công du Ấn Độ và tuyên bố là Việt Nam đồng ý gia hạn hợp đồng thêm hai năm nữa cho công ty ONGC Videsh của Ấn Độ hoạt động khai thác tại Lô 128 nằm khoảng 100 km ở ngoài khơi Bình Thuận trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt nam nhưng cũng trong đường lưỡi bò.
Cũng trong đầu tháng 7, Bill Hayton cho biết là Talisman Vietnam đã bắt đầu khoan dầu tại lô 136-01 thuộc bãi Tư Chính ở Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Vạn An Bắc 21. Talisman Việt Nam là một công ty con của tập đoàn dầu hỏa Repsol (Tây Ban Nha). Vào năm 2014, Trung Quốc cho biết là đã bán lô dầu Vạn An Bắc này cho Brightoil là một công ty Hồng Kông. Hai giám đốc của Brightoil là đảng viên cao cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Việt Nam đã ngưng hoạt động khai thác của Talisman Vietnam trong 3 năm qua vì sợ làm phật lòng Trung Quốc. Nhưng Việt Nam cho phép Talisman Vietnam trở lại hoạt động khoan dầu từ ngày 21/6. Việt Nam giữ kín việc này vì sự nhạy cảm của vấn đề đối với Trung Quốc. Bill Hayton cũng cho biết là sau khi Trung Quốc ra tối hậu thư thì Bộ Chính Trị Đảng CSVN đã có họp và biểu quyết với tỷ lệ 17/19 quyết định tiến tới khoan dầu. Chỉ có 2 phiếu chống nhưng đó là phiếu của 2 nhân vật quyền lực nhất là Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng và Bộ Trưởng Quốc Phòng Ngô Xuân Lịch.
Có người hoài nghi về nguồn tin của Bill Hayton. Trong một cuộc trao đổi với BBC Việt ngữ, TS Hà Hoàng Hợp cho biết là ông cũng nhận tin từ Hà Nội là không có cuộc họp nào của Bộ Chính trị về vấn đề này. Vả lại, thành viên bây giời chỉ còn 18 người sau khi ông Đinh La Thăng “xin thôi”. Cho dù có họp thì cũng khó có đủ 18 người tham dự vì nhiều lý do khác nhau như bận công việc hoặc vì sức khoẻ, chẳng hạn như Đinh Thế Huynh.
Trong một thể chế dân chủ thì ký giả có thể đặt câu hỏi trực tiếp với chính phủ chớ không cần đồ đoán là có hoặc không có họp hoặc nếu có họp thì bao nhiêu tham dự, hoặc họp đối mặt hay qua điện thoại hoặc video hay skype. Ngoài ra, các bộ trưởng phải trả lời trước Quốc hội và bị chất vấn. Việt Nam không phải là một quốc gia dân chủ nên không có trách nhiệm giải trình như vậy. Bộ Chính trị cũng không cần tham khảo ý kiến với ai. Nhưng việc mà Trung Quốc đe dọa sử dụng vũ lực không phải là chưa từng có. Trong một cuộc hội đàm vào tháng 5 vừa qua, Tổng thống Duterte của Phi Luật Tân đã nói với Tập Cận Bình là Phi Luật Tân có ý định tiếp tục hoạt động khai thác tại bãi Cỏ Rong (Reed Bank) nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Phi Luật Tân. Như Việt Nam, Phi Luật Tân đã tạm ngưng khai thác vì Trung Quốc liên tục quấy nhiễu. Vào ngày 12/7/2016, Tòa Trọng Tài ban hành phán quyết vụ kiện Đường Lưỡi Bò với kết luận là Trung Quốc vi phạm UNCLOS khi ngăn cản quyền khai thác của Phi Luật tân trong vùng đặc quyền kinh tế tại bãi Cỏ Rong. Thế mà Tập đã hăm là sẽ động binh nếu Duterte tiến hành khai thác trở lại. Trước khi qua Việt Nam thì Tướng Phạm Trường Long đã đi Madrid, Tây Ban Nha và đặt vấn đề với Repsol. Trung Quốc và Việt Nam một phần nào cũng gián tiếp xác nhận sự việc. Phát ngôn nhân Bộ Ngoại Giao Trung Quốc Lục Khảng khi được hỏi về việc này lập lại là Trung Quốc đã yêu cầu ngưng khoan dầu tại khu vực có tranh chấp. Về phía Việt Nam, bà Lê Thu Hằng phát biểu là “hoạt động dầu khí diễn ra tại khu vực biểu trong quyền tài phán của Việt Nam và đề nghị các bên liên quan tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của Việt Nam“.
Dù vì bất cứ lý do đằng sau chính xác thế nào đi nữa nhưng rõ ràng là Repsol đã chính thức ra thông báo đình chỉ hoạt động khai thác dầu khí vì có sự tranh chấp từ Trung Quốc. Thứ hai, Bắc Kinh đã yêu cầu Việt Nam ngưng khai thác và đe dọa trừng phạt nếu Hà Nội không nghe lời. Và thứ ba là Bộ Chính Trị đã quyết định ngưng khai thác theo lời yêu cầu của Bắc Kinh. Quyết định của Bộ Chính Trị Đảng CSVN sẽ dẫn đến hậu quả rất tai hại cho Việt Nam. Không chỉ mất đi nguồn thu trong tương lai mà Việt Nam có nguy cơ phải bồi thường thiệt hại cho Repsol. Ước đoán là Repsol đã chi hơn 300 triệu Mỹ kim cho dự án này. Con số bồi thường có thể lên tới 1 tỷ Mỹ kim vì bên nào vi phạm hợp đồng phại chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại thực tế và thất thoát lợi nhuận dựa theo hợp đồng. Chưa kể là Việt nam khó thu hút được các đối tác trong tương lai cùng hợp tác khai thác và do đó sẽ đe dọa đến nền an ninh năng lượng có ý nghĩa sống còn cho sự phát triển kinh tế và xã hội.
Tại sao lại có sự phân biệt đối xử của Trung Quốc giữa lô 118, 128 và 136-03? Lô 118 và 128 rõ ràng nằm trong phạm vi 200 hải lý từ bờ biển Việt Nam. Exxon Mobil và ONGC Videsh là hai công ty của Mỹ và Ấn Độ với lực lượng hải quân hùng hậu. Trong khi đó, Repsol là một tập đoàn dầu khí quốc gia của Tây Ban Nha là nước không có sự hiện hiện quân sự tại Biển Đông. Ngoài ra, lô 136-03 cách bờ biển Vũng tàu khoảng 400 km tức ngoài phạm vi 200 hải lý (370 km) của Việt Nam. Nhưng nếu tính từ Côn Sơn (Côn đảo) thì có thể nằm trong phạm vi 200 hải lý. Câu hỏi là dưới UNCLOS, từ đường cơ sở của Việt Nam đến bãi Tư Chính tính từ Vũng Tàu hay là Côn Đảo? Dù sao đi nữa, Việt Nam có thể lập luận rằng bãi Tư Chính nằm trong thềm lục địa của Việt Nam và do đó Việt Nam có toàn quyền khai thác khoáng sản và dầu khí phù hợp với UNCLOS mà Trung Quốc không có bất cứ lý do chính đáng nào để can thiệp.
Trong mấy ngày qua, Duterte bắn tiếng là sẽ hợp tác khai thác chung với Trung Quốc tại bãi Cỏ Rong. Trước đây vào năm 2005, Tổng Thống Gloria Arroyo đã ký thỏa thuận khảo sát địa chấn chung với Trung Quốc. Ngược lại, Bắc Kinh giúp Manila đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhưng tới năm 2008 thì lòi ra các vụ xì-căng-đan tham nhũng dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Arroyo. Sau khi thỏa thuận chấm dứt, Trung Quốc nêu yêu sách chủ quyền trong khu vực khảo sát chung và xua đuổi các công ty ngoại quốc không cho họ thương lượng hợp đồng với Manila. Từ thời Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc đã đưa ra kế sách tạm gác tranh chấp chủ quyền và khai thác chung. Vấn đề là yêu sách chủ quyền của Trung Quốc tại Trường Sa dựa vào đường lưỡi bò không có cơ sở pháp lý như phán quyết của Tòa Trọng Tài xác nhận. Nói một cách khác, Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền bất hợp pháp rồi kết luận là có tranh chấp chủ quyền rồi đòi khai thác chung trong vùng đặc quyền kinh tế của các nước láng giềng.
Có thể Bắc Kinh cũng đang chờ giương một cái bẫy tương tự như vậy với các đồng chí trong Bộ Chính trị ở Ba Đình đối với bãi Tư Chính.
N.V.T.
Tác giả gửi BVN