Bế tắc giải quyết doanh nghiệp nhà nước

Phạm Chí Dũng

Người Việt

clip_image002

Cho tới nay Chính phủ của ông Nguyễn Xuân Phúc dường như vẫn nguyên trạng thế bế tắc trong mục tiêu giải quyết hàng loạt doanh nghiệp nhà nước làm ăn lỗ lã, cận kề phá sản. Nhưng nguy hiểm nhất là đang bắt ngân sách phải còng lưng trả nợ thay cho núi vay trong quá khứ.

Con nợ Đạm Ninh Bình là một ví dụ…

Nợ doanh nghiệp nhà nước

Hãy đối chiếu giữa khối doanh nghiệp nhà nước và khối doanh nghiệp tư nhân. Khối doanh nghiệp nhà nước chiếm tới 2/3 tổng tài sản, 60% nguồn vốn tín dụng, 70% nguồn vốn ODA và được ưu đãi rất lớn về khả năng tiếp cận tín dụng và những điều kiện về chính sách, nhưng lại hoạt động quá tệ. Ít nhất 30% doanh nghiệp nhà nước bị lỗ và khối này chỉ đóng góp được khoảng 1/3 tổng sản phẩm xã hội.

Gần như ngược lại, khối doanh nghiệp tư nhân chỉ chiếm 1/3 tài sản, chẳng mấy được ưu đãi về tín dụng và chỉ có thể “hớt cặn” vốn ODA, lại còn bị phân biệt đối xử đủ đường, nhưng lại tạo ra đến 2/3 tổng sản phẩm xã hội.

Nội dung đáng chú ý nhất của Luật Quản lý nợ công (sửa đổi) (vừa được “thống nhất cao” hồi tháng Năm) là không chấp nhận đưa các khoản vay nợ nước ngoài của tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước vào khái niệm nợ công quốc gia. Trong khi đó, loại nợ này lại là một trong năm định nghĩa về nợ công của cơ quan thống kê của Liên Hiệp Quốc.

Nhưng tại sao luật về nợ công của Việt Nam lại như cố tình không gộp cả phần nợ vay nước ngoài của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước?

Theo một phân tích của Tiến sĩ Vũ Quang Việt vào đầu năm 2017 ngay trên một tờ báo nhà nước là Thời báo Kinh tế Sài Gòn, nợ của 3,200 doanh nghiệp nhà nước theo điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2014 là 4.9 triệu tỷ đồng ($231 tỷ), gấp nhiều lần con số 1.5 triệu tỷ đồng mà Bộ Tài chính đưa ra chỉ cho một số tập đoàn và công ty lớn. Ước tính thêm cho thấy năm 2016, nợ của doanh nghiệp nhà nước là $324 tỷ, bằng 158% GDP.

Như vậy, cộng cả nợ Chính phủ và nợ doanh nghiệp nhà nước sau khi trừ đi phần Chính phủ bảo lãnh trùng lặp, tổng số nợ năm 2016 là $431 tỷ, bằng 210% GDP.

Trước đây và đặc biệt dưới thời của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, việc Chính phủ bảo lãnh cho tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước vay vốn của nước ngoài diễn ra tràn lan và vô tội vạ. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, có ít nhất 30% số doanh nghiệp nhà nước luôn phải đối mặt với nguy cơ phá sản.

Còn sang thời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, vấn đề bảo lãnh vay nợ nước ngoài cho doanh nghiệp nhà nước gần như đã bị Chính phủ đóng lại bởi vì số nợ công tăng vượt mặt. Theo tinh thần mới nhất mà Thủ tướng Phúc họp với ngành tài chính và các ngành khác, nếu doanh nghiệp nhà nước không trả được nợ vay nước ngoài thì sẽ phải tự phá sản chứ không thể trông đợi vào sự cứu giúp của Chính phủ.

“Phán quyết” mới nhất của Chính phủ là cơ quan này sẽ bảo lãnh cho doanh nghiệp nhà nước vay nợ nước ngoài chỉ đúng $1 tỷ trong năm 2017, giảm mạnh so với mức bảo lãnh $2.5 tỷ trong năm 2015 và $1.5 tỷ trong năm 2016.

Giải pháp SCIC?

Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) được thành lập vào năm 2005, tức cách đây đến 11 năm. Vào lúc thành lập, SCIC đã được giới chức quản trị và báo chí nhà nước tung hô như một cơ quan sẽ giúp cho bộ máy quản trị tinh gọn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước.

Tuy nhiên, khoảng thời gian tồn tại hàng chục năm qua của SCIC cũng trùng với thời gian diễn ra phong trào tham nhũng ghê gớm nhất ở Việt Nam, tồn tại dưới “triều đại Nguyễn Tấn Dũng”. Cho đến những năm gần đây, rất nhiều dư luận xã hội đã cho rằng SCIC đã không làm gì khác ngoài việc lấy vốn nhà nước đi gửi ngân hàng để lấy lãi hoặc chỉ bỏ tiền vào những vụ việc mang màu sắc “trục lợi chính sách”. Trong khi đó, vốn nhà nước ở nhiều tập đoàn, tổng công ty vẫn đều đặn thất thoát (Vinashin, Vinalines…).

Vào tháng Chín, 2016, Bộ Tài chính cho biết là từ năm 2014 đến năm 2015, SCIC đã triển khai bán vốn thành công tại 12 doanh nghiệp niêm yết theo phương thức bán thỏa thuận ngoài hệ thống Sở Giao dịch Chứng khoán, sàn Upcom với giá bán nằm ngoài biên độ giá giao dịch của mã chứng khoán tại ngày chuyển nhượng. Kết quả, giá trị vốn đầu tư SCIC hạch toán trên sổ sách kế toán là 211,499 tỷ đồng, giá trị bán vốn thu về là 757,904 tỷ đồng, chêch lệch bán vốn là hơn 565,215 tỷ đồng, chênh lệch giữa giá trị thu về so với giá trị tính theo mức giá trần của mã chứng khoán tại ngày chuyển nhượng là 371,236 tỷ đồng.

Như vậy, SCIC đã bán vốn nhà nước được khoảng $25 tỷ trong hai năm qua. Năm 2014 lại là năm mà tình hình thu ngân sách bắt đầu khó trầm trọng, giá dầu thô quốc tế giảm mạnh, đồng thời nguồn vay ODA quốc tế cũng giảm mạnh, trong lúc Chính phủ phải “căng mình” để trả nợ (nợ quốc tế phải trả trong năm 2015 lên đến $20 tỷ).

Câu hỏi đặt ra là con số $25 tỷ mà SCIC đã bán được chi dùng cho cái gì?

Nhiều khả năng con số trên được chi trả cho đội ngũ công chức viên chức lên đến gần ba triệu người, còn lại để chi “đầu tư phát triển” (trong đó không ít công trình trụ sở hành chính và tượng đài ngàn tỷ), và trả nợ nước ngoài.

Với kết quả quá sức hạn chế như vậy của SCIC, liệu một “siêu ủy ban quản lý vốn nhà nước” – đang được Chính phủ và các bộ ngành dự tính cho thay thế SCIC – sẽ làm được gì, hay lại chỉ mang đến một tầng nấc trung gian mới?

Phá sản

Từ vài năm qua, đã xuất hiện một ít doanh nghiệp nhà nước bị phá sản, tuy chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với doanh nghiệp tư nhân.

Nhưng năm 2017 và những năm tiếp theo sẽ khác hẳn. Doanh nghiệp nhà nước sẽ “đồng hành” với tình trạng khốn khó của doanh nghiệp tư nhân.

Không khó để dự đoán rằng một khi Chính phủ gần như phủi tay trước nhiều món nợ vay nước ngoài của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước, ngay trong hai năm 2017 và 2018 sẽ xuất hiện những cái tên doanh nghiệp nhà nước bắt buộc phải phá sản, thậm chí còn phải đối mặt với vòng lao lý.

Và sẽ ập đến cả một phong trào “bắt doanh nghiệp nhà nước,” đi đôi với chiến dịch “bắt ngân hàng” đã, đang và sẽ gây náo loạn…

Bán và bán

Trong bối cảnh ngân sách năm 2016 vẫn tiếp tục bội chi đến 5.4% GDP và các nguồn thu từ trong nước lẫn từ quốc tế vẫn tiếp tục eo hẹp nhanh chóng, đời Thủ tướng Phúc đã chẳng thể làm gì khác hơn thời gian cuối đời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là bán đi những gì sẵn có.

Một trong những nguồn sẵn có vẫn còn có thể bán được là phần vốn nhà nước nằm trong các doanh nghiệp.

Vào đầu tháng Năm, Bộ Tài Chính – cơ quan mà vào giai đoạn cuối đời Thủ tướng Dũng đã mang chức trách chuyên đi vay nợ để cứu vãn ngân sách, sau này chính thức có thêm chức năng mới là “bán vốn nhà nước” – đã kiến nghị Thủ tướng Phúc quyết định phương án bán tiếp cổ phần Vinamilk.

Đồng thời, Chính phủ cũng đã lên kế hoạch bán vốn tại Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam (PV Power). Thậm chí, Chính phủ còn để ngỏ phương án có thể bán tới 49% vốn tại PV Power.

PV Power là một trong ba nhà cung cấp điện lớn nhất cùng với Tập đoàn Điện lực (EVN) và Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản (TKV). Dự trù, việc bán cổ phần có thể giúp nhà nước thu về $700 triệu, và số tiền thu được sẽ “sử dụng làm nguồn vốn đầu tư cho các dự án năng lượng khác” – theo thông tin từ phía Chính phủ. Tuy nhiên nhiều người thừa hiểu rằng một nền ngân sách “thủng túi” chỉ có thể sống sót nếu được “tiếp máu” bằng tiền bán vốn nhà nước tại các doanh nghiệp.

Cần nhắc lại, thời điểm cuối năm 2015 đã chứng kiến Thủ tướng Dũng quyết định bán cổ phần tại hàng chục doanh nghiệp nhà nước, kể cả “con bò sữa” như Vinamilk để “bù đắp khó khăn ngân sách,” trong bối cảnh “ngân sách trung ương chỉ còn 45,000 tỷ đồng mà không biết chi cho cái gì”.

Cuộc “cách mạng bán tháo vốn nhà nước” lại diễn ra ngay vào đầu năm 2016, để đến giữa năm phía Chính phủ “xông xênh” bước ra trước Quốc hội với món tiền bán vốn được 10,000 tỷ đồng. Tuy nhiên, chừng đó vẫn là quá ít so với túi thủng ngân sách.

Đến tháng Tám, 2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phải chỉ đạo tiếp tục bán vốn tại hàng loạt doanh nghiệp khủng như Tổng Công ty Cổ phần Bia Rượu Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco), Tổng Công ty Cổ phần Bia Rượu Nước giải khát Hà Nội (Habeco) và bán cổ phần của Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) tại 10 doanh nghiệp như Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk), Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh, Tổng Công ty Cổ phần Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam, Công ty Cổ phần Nhựa Thiếu niên Tiền phong, Công ty Cổ phần FPT, Công ty Cổ phần Viễn thông FPT…

Trong khi kế hoạch bán đường, bán cảng, bán sân bay… mà Thủ tướng Dũng chỉ đạo các bộ ngành “nghiên cứu thực hiện” từ năm 2015 vẫn chưa đâu vào đâu, đơn giản là vì chưa có ai mua, thì việc Thủ tướng Phúc rút tiền từ cổ phần nhà nước trong các doanh nghiệp lớn là chóng vánh và thuận lợi nhất.

Một chuyên gia ngành tài chính ước tính, nếu bán hết vốn nhà nước tại 10 công ty thuộc SCIC cùng Habeco, Sabeco, Nhà nước có thể thu được tới $7 tỷ (khoảng 150,000 tỷ đồng).

Con số 150,000 tỷ đồng trên, bằng khoảng 13% chi ngân sách năm 2016, là một số tiền lớn và đáng kể trong bối cảnh Đảng không biết lấy tiền đâu để chi xài sau những vụ suýt nữa vỡ nợ của các Thành ủy Cà Mau và Tỉnh Ủy Bạc Liêu vào cuối năm 2015, để sang năm 2016 còn nghe nói Đảng đã phải dùng đến “quỹ đen” (một loại quỹ dự phòng trong Đảng) và đang phải tìm cách “nhất thể hóa” giữa một số cơ quan Đảng với cơ quan chính quyền để tiết giảm nguồn chi ngân sách.

Song 150,000 tỷ đồng cũng chỉ đủ để chi ngân sách khoảng 1.5 tháng. Hoặc chỉ có thể bù đắp được gần 2/3 của khoản bội chi ngân sách năm 2016 có thể lên đến 254,000 tỷ đồng.

Nhưng sau khi bán sạch những cổ phần ngon ăn và màu mỡ nhất tại các doanh nghiệp, Chính phủ Việt Nam còn gì để bán vào những năm tới?

P.C.D.

Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/binh-luan/be-tac-giai-quyet-doanh-nghiep-nha-nuoc/

This entry was posted in kinh tế. Bookmark the permalink.