TPO – Nói về ngày 14/3/1988, cần nêu đầy đủ các diễn biến ở đá Gạc Ma, đá Len Đao và đá Cô Lin, đặt trong tổng thể Chiến dịch Chủ quyền 1988. Đó là điều cần làm nếu thực sự kính phục, tri ân với những người đã dũng cảm, kiên quyết, hy sinh xương máu để bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc.
Cố Đô đốc, Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương thăm bộ đội đang xây dựng đảo chìm Tiên Nữ, tháng 5/1988. Ảnh: Nguyễn Văn Thái
Bài 1: CỦNG CỐ THẾ ĐỨNG Ở TRƯỜNG SA
Trước năm 1978, Hải quân Việt Nam đóng giữ 5 đảo ở quần đảo Trường Sa: Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa. Đầu năm 1978, Philippines đưa quân chiếm đóng đá An Nhơn (cồn san hô Lan Can), Malaysia cũng đưa nhiều tàu quân sự đến khu vực Nam quần đảo Trường Sa.
“Hồi đó tàu mình nhỏ bé, phương tiện liên lạc và chạy tàu đều lạc hậu. Có lần tàu chúng tôi đi tàu giả dạng tàu cá, từ đảo Trường Sa lên Đá Lớn nhưng do la bàn sai nên chạy vào gần Chữ Thập lúc 12 giờ trưa. Đến Đá Lớn rồi chạy sang Nam Yết, lúc mờ sáng thì bị bắn, nhìn lại thấy chạy lạc vào gần Ga Ven”.
Đại tá Nguyễn Văn Dân
Trước tình hình này, Hải quân Việt Nam tổ chức đóng giữ tất cả các đảo nổi còn chưa có lực lượng nào đóng giữ ở quần đảo Trường Sa, là các đảo An Bang (10/3/1978), Sinh Tồn Đông (15/3/1978), Phan Vinh (30/3/1978) và Trường Sa Đông (4/4/1978).
Cũng trong tháng 4/1978, một phân đội được đưa ra đóng giữ bãi Thuyền Chài, nhưng do điều kiện vật chất chưa bảo đảm nên tháng 5/1978 phân đội được rút về đất liền.
Từ cuối năm 1986, Philippines tăng cường lực lượng ở các đảo họ đang chiếm đóng tại quần đảo Trường Sa, tổ chức trinh sát từ đảo Song Tử Tây ở phía Bắc đến bãi Thuyền Chài ở phía Nam. Ngày 31/12/1986, Malaysia chiếm đóng bãi Kỳ Vân ở gần bãi Thuyền Chài, đến tháng 1/1987 họ lại chiếm đóng bãi Kiệu Ngựa, gần bãi Kỳ Vân. Do vậy, ngày 5/31987, Hải quân Việt Nam trở lại đóng giữ đá Thuyền Chài. Đây là bãi đá san hô (đảo chìm) đầu tiên ở Trường Sa được Hải quân Việt Nam đóng giữ. Tổng cộng, đến năm 1987 ta đóng giữ 10 đảo, bãi ở quần đảo Trường Sa, trong đó có 9 đảo nổi.
Chiến sĩ Trường Sa năm 1988. Ảnh tư liệu.
Chiến dịch Chủ quyền 1988
Đến năm 1987, trong số 6 bên 5 nước tranh chấp chủ quyền tại quần đảo Trường Sa (Việt Nam, Philippines, Malaysia, Trung Quốc và Đài Loan (Trung Quốc), Bruney), Trung Quốc chưa hiện diện trên một thực thể địa lý nào ở Trường Sa. Theo sách Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam (1955 – 2005), đầu năm 1987 Trung Quốc đưa tàu Hải Dương 4 và một số tàu khác trinh sát quần đảo Trường Sa. Cuối năm, Trung Quốc đưa thêm nhiều tàu chiến đến khu vực…
Bộ Chính trị và Đảng ủy Quân sự Trung ương ra nghị quyết, nêu rõ việc bảo vệ chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa là nhiệm vụ khẩn trương, quyết liệt, lâu dài, là nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ thị Quân chủng Hải quân tăng cường khả năng bảo vệ quần đảo Trường Sa, đưa lực lượng ra đóng các bãi đá cạn.
“Ngay từ cuối những năm 1970, chúng tôi đã đi đặt bia chủ quyền trên các bãi đá san hô, ở các bia đều có dòng chữ “thuộc nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Để có được mấy chữ đơn giản như vậy, chúng ta đã đổ không biết bao nhiêu xương máu”.
Đại tá Cao Ánh Đăng, nguyên Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146, người trực tiếp chỉ huy đóng giữ đảo An Bang, đảo Phan Vinh và đá Thuyền Chài.
Ngày 24/10/1987, Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương ra lệnh lực lượng bảo vệ các đảo thuộc quần đảo Trường Sa chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu thường xuyên sang sẵn sàng chiến đấu tăng cường, đồng thời chỉ thị chuẩn bị lực lượng, phương tiện, sẵn sàng cơ động ra đóng giữ các bãi đá. Toàn Quân chủng Hải quân triển khai Chiến dịch Chủ quyền 1988 (CQ-88). Bộ tư lệnh tiền phương của Quân chủng được thiết lập ở căn cứ Cam Ranh, Tư lệnh Giáp Văn Cương trực tiếp làm Tư lệnh Vùng 4 Hải quân.
Ngày 2/12/1987, quân ta đóng giữ bãi Đá Tây. Ngày 25/1/1988, quân ta đóng giữ đá Tiên Nữ. Ngày 31/1/1988, Trung Quốc đưa 4 tàu hộ vệ tên lửa, tàu đổ bộ và một số tàu khác đến chiếm đóng đá Chữ Thập.
Ngày 5/2/1988, quân ta đóng giữ Đá Lát. Ngày 18/2/1988, Trung Quốc chiếm đóng đá Châu Viên. Ngày 19/2/1988 ta đóng giữ Đá Đông, ngày 20/2/1988 ta đóng giữ Đá Lớn.
Ngày 26/2/1988, Trung Quốc chiếm đóng đá Ga Ven. Ngày 27/2/1988, ta đóng giữ đá Tốc Tan. Ngày 28/2/1988, ta đóng giữ thêm đá Núi Le. Cũng ngày này, Trung Quốc chiếm đóng đá Tư Nghĩa (Huy Gơ).
Tại đá Chữ Thập, đá Châu Viên, Đá Lớn, Đá Đông đã có những sự đụng độ quyết liệt, căng thẳng giữa tàu Việt Nam và tàu Trung Quốc, có lúc nòng súng hai bên đã chĩa thẳng vào nhau. “Mình lên Đá Đông rồi, tàu nó cứ quần bên ngoài, chĩa pháo vào mình, trong khi tàu HQ-614 đưa quân mình lên Đá Đông chỉ là tàu vận tải 200 tấn, trang bị vũ khí chỉ có AK, B40, một khẩu 12 ly 7. Lúc đó, trên tàu có cái ống thùng dầu phụ của máy bay để đựng nước, chúng tôi làm giả như tên lửa để nó phải dè chừng”. Đại tá Nguyễn Văn Dân, năm 1988 là Trung tá, Phó Tham mưu trưởng Vùng 4 Hải quân, chỉ huy đóng giữ đảo Đá Đông kể lại.
Ca sĩ Anh Đào, Đoàn ca múa Hải Đăng (Khánh Hòa) đơm cúc áo và hát cho chiến sĩ đảo Phan Vinh, tháng 5/1988. Ảnh Nguyễn Viết Thái.
Khẩn cấp tiến về Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin
Ngày 18/2/1988, Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Hải quân chỉ đạo: “Ta phải kiên quyết đóng nhanh, đóng đồng thời tất cả các đảo đã có kế hoạch. Nếu cần có thể dùng mọi loại tàu để ủi bãi, không làm như vậy sẽ không kịp ngăn chặn Trung Quốc mở rộng phạm vi chiếm đóng thêm”.
Đúng 6 giờ sáng ngày 14/3/1988 phải đóng giữ được đá Len Đao, đó là nội dung mật lệnh ngày 11/3/1988 của Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương gửi Thuyền trưởng tàu HQ-605, Đại úy Lê Lệnh Sơn. “Tàu chúng tôi là tàu vận tải lớp Đại Khánh 400 tấn, vừa hoàn thành chuyến tiếp vận cho các điểm đảo Tốc Tan, Núi Le, Tiên Nữ… ta mới đóng giữ, đang trên đường về Cam Ranh.
Về đến Đá Đông gặp tàu quét mìn, hình như là tàu 852, chúng tôi chuyển hầu hết số nước, lương thực thực phẩm còn lại cho 852, vì nghĩ mình sắp về bờ rồi. Nhưng sau đó, được lệnh quay lại đóng giữ Len Đao”. Thượng úy Uông Xuân Thọ, nguyên máy trưởng tàu HQ-605 kể.
Nhà cao chân ở bãi Thuyền Chài, tháng 5/1988.
Cùng ngày 11/3/1988, tàu HQ-604 chở 2 khung nhà cao chân và gần 100 cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 83 Công binh Hải quân, Lữ đoàn 146 và Đoàn 6 Hàng hải được lệnh rời Cam Ranh, ra Đá Lớn gặp tàu HQ-505 đang trực ở đó rồi cùng đến đóng giữ đá Gạc Ma và đá Cô Lin, trong đêm 13/3/1988 rạng ngày 14/3/1988.
Bài 2: NHỮNG NGƯỜI DŨNG CẢM BẢO VỆ CHỦ QUYỀN CỦA TỔ QUỐC
TPO – Ngày 14/3/1988, hàng trăm viên đạn pháo đã bắn vào những con tàu, những người lính Hải quân Việt Nam ở đá Gạc Ma, đá Len Đao và đá Cô Lin, làm 64 người hy sinh. Những người lính Việt Nam gan dạ, anh dũng đã bảo vệ được đá Len Đao và đá Cô Lin, quân Trung Quốc chỉ chiếm được đá Gạc Ma.
Ngày bi tráng 14/3/1988
Đá Gạc Ma, đá Cô Lin và đá Len Đao đều thuộc cụm đảo Sinh Tồn. Đá Gạc Ma cách đảo Sinh Tồn 11 hải lý về phía Tây Nam, cách đá Cô Lin gần 4 hải lý và cách đá Len Đao 7 hải lý. Tàu HQ-604 và tàu HQ-505 tới cạnh đá Gạc Ma và đá Cô Lin vào chiều tối ngày 13/3/1988, cùng thời gian tàu HQ-605 cũng tới đá Len Đao.
Chỉ ít phút sau, hai tàu chiến Trung Quốc từ đá Tư Nghĩa chạy tới áp sát tàu ta và dùng loa gọi sang, đòi tàu ta rời đi… Bộ Tư lệnh Hải quân ra lệnh, tổ chức đóng giữ bãi Gạc Ma ngay trong đêm 13/3/1988.
Bản đồ khu vực thực hiện Chiến dịch CQ-88, chữ số màu đỏ đánh dấu các điểm Việt Nam đóng giữ trong chiến dịch này, chữ số màu đen đánh dấu điểm bị Trung Quốc chiếm đóng
Theo sách Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam (1955 – 2005), khoảng 3 giờ sáng ngày 14/3/1988 quân ta bắt đầu chuyển vật liệu từ tàu HQ-604 lên đá Gạc Ma. Khoảng 6 giờ ngày 14/3/1988, Trung Quốc điều tới thêm 2 tàu, dùng 3 thuyền nhôm đưa khoảng 40 lính lên bãi Gạc Ma, giật quốc kỳ Việt Nam, bắn chết Trung úy Trần Văn Phương, đâm trọng thương hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh.
Bị quân ta đánh trả, quân Trung Quốc rút ra xa, xả đạn pháo và các loại súng vào tàu HQ-604 ta và quân ta đang ở trên bãi. Trung tá Trần Đức Thông, Phó Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 chỉ huy bộ đội bắn trả quyết liệt.
Tuy nhiên, các tàu địch có số lượng và uy lực vũ khí áp đảo, tàu HQ-604 trúng nhiều đạn pháo địch, chìm xuống biển… Trung tá Trần Đức Thông và 61 đồng đội hy sinh, mất tích, 9 người bị Trung Quốc bắt. Những người còn sống đi tìm vớt đồng đội hy sinh và bị thương, đưa lên một xuồng của công binh rồi bơi về phía tàu HQ-505 ở đá Cô Lin.
Di ảnh Anh hùng liệt sĩ Trần Văn Phương
Tại đá Cô Lin, lực lượng trên tàu HQ-505 đã cắm hai cờ Việt Nam trên bãi trước 6 giờ sáng ngày 14/3/1988. Sau khi bắn vào tàu HQ-604, các tàu Trung Quốc bắn nhiều đạn pháo vào tàu HQ-505, khiến tàu bị hỏng máy.
Thiếu tá Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ chỉ huy khẩn trương sửa máy, rồi lệnh chạy cả hai máy tàu, ủi bãi Cô Lin. Hơn 8 giờ sáng ngày 14/3/1988, tàu HQ-505 bốc cháy nhưng đã trườn được hai phần ba thân lên bãi. Lực lượng trên tàu vừa triển khai dập lửa cứu tàu, bảo vệ đá Cô Lin, vừa đưa xuồng đi cứu vớt đồng đội ở phía đá Gạc Ma.
Anh hùng Vũ Huy Lễ và sĩ quan, thủy thủ tàu HQ-505, tháng 4/1988. Ảnh Nguyễn Viết Thái
Tại đá Len Đao, rạng sáng ngày 14/3/1988 Trung úy Phan Hữu Doan, Phó Thuyền trưởng tàu HQ-605 chỉ huy một nhóm lên bãi cắm cờ. Khi thấy các tàu HQ-604 và HQ-505 bị bắn, Đại úy Thuyền trưởng Lê Lệnh Sơn lệnh đơn vị tránh xuống mặt boong, trên cabin chỉ còn Thuyền trưởng và Thượng úy, máy trưởng Uông Xuân Thọ điều khiển tàu ủi bãi Len Đao. Khoảng gần 8 giờ ngày 14/3/1988, tàu HQ-605 vừa tăng tốc để ủi bãi thì bị tàu Trung Quốc bắn pháo vào thẳng cabin và buồng máy.
Thuyền trưởng Lê Lệnh Sơn và máy trưởng Uông Xuân Thọ kịp chạy khỏi cabin, chỉ bị thương. Lúc tàu HQ-605 bị bắn, Thuyền phó Phan Hữu Doan đang tắm sau khi được thay ca giữ cờ. “Anh Doan bị lửa từ buồng máy trùm lên và mảnh đạn găm vào mặt, chạy ra bên lan can tàu. Khi nhảy xuống biển, nhiều mảng da của anh bị lột ra”. Thượng úy Uông Xuân Thọ bồi hồi kể lại.
Sĩ quan, thủy thủ tàu HQ-605 đưa Trung úy Phan Hữu Doan và người bị thương nặng nhất là thợ máy Trần Văn Sáu lên phao cá nhân. Họ không tìm thấy Trung sĩ báo vụ Bùi Duy Hiển, có lẽ anh đã hy sinh trên tàu. Vài giờ sau, nhóm giữ cờ trên bãi Len Đao bơi xuồng gặp được những người nhảy từ tàu xuống.
Những người bị thương nặng được đưa lên xuồng, những người khác bơi quanh, dìu xuồng về hướng đảo Sinh Tồn. Sau gần 8 giờ bơi trên biển, gần 4 giờ chiều ngày 14/3/1988 họ được bộ đội đảo Sinh Tồn bơi xuồng ra đón. Trung úy Phan Hữu Doan mất trên đường bơi về đảo Sinh Tồn. Vừa lên đảo, Thượng úy Uông Xuân Thọ cũng mê man bất tỉnh.
Liệt sĩ Phan Hữu Doan đứng thứ hai từ phải sang, cùng các sinh viên Mozambik, Yemen và Nga tại Học viện Hải quân Nikola Vaptsarov (Bulgaria) năm 1982, ảnh lấy từ website của Học viện Hải quân Nikola Vaptsarov
Đến sáng ngày 15/3/1988, tàu HQ-605 chìm hẳn. Trước đó, chiều ngày 14/3/1988, các tàu HQ-931, HQ-671, HQ-614 lần lượt tới tiếp ứng, bảo vệ bãi Len Đao và bãi Cô Lin.
Không có chuyện “giành lại Len Đao”
Với sự chỉ huy mau lẹ, tỉnh táo, kiên quyết của Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ, với sự đoàn kết, dũng cảm, tình đồng đội của tập thể tàu HQ-505, chủ quyền của Việt Nam đối với đá Cô Lin đã được bảo vệ vững chắc, nhiều người sĩ quan, chiến sĩ ở đá Gạc Ma đã được cứu giúp.
Ngày 6/1/1989, Thiếu tá Thuyền trưởng tàu HQ-505 Vũ Huy Lễ được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Liệt sĩ, Trung úy Trần Văn Phương được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ngày 8/1/1989, tập thể tàu HQ-505 được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Đến ngày 3/12/1989, Liệt sĩ, Trung tá Trần Đức Thông và Liệt sĩ, Thiếu tá Vũ Phi Trừ, Thuyền trưởng tàu HQ-604 được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Hạ sỹ Nguyễn Văn Lanh được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Đại tá Nguyễn Văn Dân cắm Quốc kỳ Việt Nam trên mỏm đá san hô cao nhất của đá Len Đao, ngày 22/4/1988
“Gần đây, có một số bài báo đưa thông tin, khoảng 1 tháng sau sự kiện 14/3/1988 Hải quân Việt Nam đã tổ chức giành lại đá Len Đao, với sự hỗ trợ của 7 máy bay SU–22. Thông tin như vậy không đúng, ta mất Len Đao khi nào mà phải giành lại”, Đại tá Cao Ánh Đăng, nguyên Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 nói.
Ông cho biết thêm, thời điểm đó Không quân Việt Nam chưa đủ khả năng đưa máy bay SU-22 ra tác chiến ở khu vực quần đảo Trường Sa. Đại tá Nguyễn Văn Dân, trong chiến dịch CQ-88 là Trung tá, Phó tham mưu trưởng Vùng 4 Hải quân, chỉ huy trưởng Khu vực 2 Sinh Tồn (trong đó có Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin) cũng phản bác thông tin sai lạc về việc “giành lại Len Đao”.
Đại tá Nguyễn Văn Dân đã ở đá Len Đao từ chiều ngày 14/3/1988, cùng tàu HQ-614. Trong mấy tháng sau sự kiện 14/3/1988, ta giữ Len Đao bằng sự hiện diện của tàu HQ-614 và một số tàu khác.
Sách “Truyền thống đoàn Trường Sa anh hùng” do NXB Trẻ xuất bản năm 1995 cho biết: Do Khu vực 2 còn phức tạp, nên kế hoạch đóng giữ làm nhà ở Cô Lin, Len Đao yêu cầu phải bảo đảm bí mật, khẩn trương, tránh đụng độ, không cho địch biết ý định.
Đại tá Lê Văn Thư, Chỉ huy trưởng Vùng 4 và Đại tá Phạm Công Phán, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 được giao nhiệm vụ tổ chức làm nhà ở 2 đảo này. Ngày 28/6/1988, tàu HQ-706 từ Cô Lin đến Len Đao, ủi vào bãi cạn và tổ chức chuyển vật liệu lên bãi.
Tối ngày 29/6/1988, ta tổ chức cắm cờ và làm nhà. Trong quá trình ta làm nhà, một số tàu Trung Quốc vẫn đe dọa khiêu khích, có khi chúng vào cách đảo 180 m… Ngày 7/7/1988 ta làm xong nhà ở Len Đao, cùng thời gian này cũng làm xong nhà ở Cô Lin.
Ngày 15/3/1988, chỉ một ngày sau sự kiện 14/3/1988, ta đóng giữ thành công Đá Thị, một bãi đá san hô rất quan trọng ở cụm đảo Nam Yết. Ngày 16/3, ta tiếp tục đóng giữ bãi Đá Nam ở Tây Nam đảo Song Tử Tây.
Tổng cộng trong Chiến dịch CQ-88, Việt Nam đã đóng giữ thêm 11 bãi đá (đảo chìm), nâng số thực thể địa lý Việt Nam đóng giữ ở quần đảo Trường Sa lên con số 21.
N.Đ.Q.