Ls Nguyễn Văn Thân
Hán Vũ Đế (156 TCN -87 TCN) là vị hoàng đế thứ 7 của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, trị vì hơn nửa thế kỷ từ 140 TCN đến 87 TCN. Dưới thời cai trị của ông, nhà Hán đã phát triển lớn mạnh về mặt quân sự và ngoại giao, tiến hành các cuộc xâm lược và chiến tranh với Hung Nô. Ông cũng được lịch sử biết tới qua việc xử tội danh tướng Lý Lăng và Tư Mã Thiên. Khi 5000 quân của Lý Lăng bị 80.000 quân Hung Nô bao vây và hết lương thực, Lăng bất đắc dĩ phải buông thương đầu hàng. Nhận được tin, Hán Vũ Đế hạ lệnh giết hết cả gia đình gồm có mẹ và vợ của Lý Lăng. Quan thái sử Tư Mã Thiên ra sức can gián nên cũng bị họa lây và bị xử thiến, một tội nhục nhã nhất vào thời đó.
Vào năm 138 TCN, Hán Vũ Đế sai Trương Khiên dẫn đoàn sứ bộ đi về phía Tây Vực, Trung Á đến Đại Nguyệt Chi để kiếm đồng minh liên kết chống Hung Nô. Không may Trương Khiên bị quân Hung Nô bắt và giam giữ. Sau 10 năm tù đày, Trương Khiên trốn thoát và tiếp tục cuộc hành trình về Tây Vực. Hội kiến với rất nhiều bộ tộc nhưng không có ai chịu hợp tác. Trương Khiên trở về nước vào năm 126 TCN. Tuy nhiệm vụ không thành nhưng Trương Khiên mang về một kho tàng kiến thức về Tây Vực nên được Hán Vũ Đế coi trọng và phong cho chức Thái Trung Đại Phu.
Với những thông tin thu được, Trương Khiên đã viết cuốn sách “Triều Dã Kim Tài” ghi lại những vùng đất mà ông đã đặt chân tới gồm có vị trí địa lý, phong tục, tập quán, sản vật và tiềm năng giao thương. Quyển sách này đã tác động mạnh đến giới thương gia. Từ Trường An (nay là Tây An), thương gia Trung Hoa sử dụng lạc đà vận chuyển vải lụa và gấm vóc đến tận Ba Tư và La Mã để bán và trao đổi. Con đường Tơ lụa từ đó mới ra đời.
Con đường này lên xuống gập ghềnh theo lịch sử thăng trầm của các triều đại. Khi nhà Hán suy tàn vào thế kỷ thứ 3, Con đường Tơ lụa cũng bị đình lại. Khi nhà Đường hưng thịnh, con đường này lại phát triển. Khi nhà Đường bị lật đổ vào thế kỷ thứ 10, nó lại bị suy thoái rồi trở lại thịnh vượng dưới vó ngựa hùng mạnh của Mông Cổ. Dưới thời nhà Nguyên, một nhà thám hiểm người Ý nổi tiếng là Marco Polo (1254 – 1324) đã lưu lạc tới Trung Hoa và được phong làm quan đến 20 năm. Sau khi trở về nước bằng Con đường Tơ lụa, ông đã viết cuốn sách Il Milione (Marco Polo Du Ký) kể lại toàn bộ quá trình lưu lạc đến phương Đông và ghi lại những chuyến hàng đầy ấp sản vật trên Con đường Tơ lụa. Nhưng đến thời nhà Minh thì vương triều bắt đóng thuế rất cao nên thương gia phải tìm cách vận chuyển bằng đường biển. Quảng Châu được xem là nơi khởi đầu của Con đường Tơ lụa trên biển. Còn Con đường Tơ lụa trên đất liền dần dần đi vào tử lộ.
Vào tháng 11 năm 2012, Tập Cận Bình nhậm chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc và sau đó là Chủ tịch nước trong tháng 3 năm 2013. Ông Tập đặt ra hai mục tiêu thế kỷ gồm có xây dựng một xã hội khá giả vào năm 2021 nhân dịp Đảng CSTQ kỷ niệm 100 năm ngày thành lập và xây dựng Trung Quốc thành một nước xã hội chủ nghĩa hiện đại, giàu mạnh, dân chủ và văn minh vào năm 2049 nhân kỷ niệm 100 năm ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trong bài phát biểu tại Đại học Nazarbayeh, Kazakhstan vào ngày 7/9/2013, Tập Cận Bình lần đầu tiên đưa ra sáng kiến mở lại Con đường Tơ lụa lịch sử để kết nối kinh tế, hợp tác và mở rộng phát triển trong khu vực Trung Á và cùng nhau xây dựng vành đai kinh tế theo Con đường Tơ lụa. Một tháng sau trong chuyến viếng thăm Nam Dương vào tháng 10 năm 2013, ông Tập đề nghị các nước hợp tác tiến hành xây dựng Con đường Tơ lụa trên biển khởi điểm từ Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến xuống các quốc gia Đông Nam Á, qua eo biển Malacca tiến vào Ấn Độ Dương rồi hướng tới Địa Trung Hải và dừng chân tại Châu Phi. Hải lộ này kết nối 2 đại dương và 3 lục địa.
Vào đầu năm 2014, Trung Quốc tiến hành thành lập nhóm chỉ đạo công tác xây dựng chiến lược ‘‘Một vành đai, Một Con đường” (One Belt, One Road hoặc OBOR) hay còn đường gọi là ‘‘Nhất đới, nhất lộ’’. Một vành đai là ý tưởng xây dựng vành đai kinh tế theo Con đường Tơ lụa lịch sử (Silk Road Economic Belt hoặc SREB) kết nối Á – Âu và Một Con đường là Con đường Tơ lụa trên Biển Thế kỷ 21 (Maritime Silk Road hoặc MSR). Đứng đầu nhóm chỉ đạo là Trương Cao Lệ Phó Thủ tướng và Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị. Để nhanh chóng thi hành dự án OBOR, Bắc Kinh không ngần ngại chi ra số tiền đầu tư khổng lồ chưa từng có trong lịch sử gồm có 40 tỷ cho Quỹ Con đường Tơ lụa (Silk Road Fund) và 50 tỷ thành lập Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng Châu Á (AIIB) vào tháng 10 năm 2014, bất chấp sự phản đối của Mỹ.
Trong tháng 3 năm 2015, Ủy ban Cải cách Phát triển Quốc gia cùng với Bộ Ngoại giao và Bộ Thương mại Trung Quốc chính thức công bố văn bản OBOR. Dự án này bao gồm 65 quốc gia của 3 lục địa Á, Âu và Phi với tổng dân số là 4.4 tỷ người (tức hơn phân nửa dân số thế giới), có 30% GDP thế giới và nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng trị giá 5,000 tỷ Mỹ kim. OBOR sẽ tạo ra 6 hành lang kinh tế gồm có: Trung Quốc – Mông Cổ – Nga; cầu nối Âu – Á trên đất liền mới; Trung Quốc – Trung Á – Tây Á; Trung Quốc – Pakistan; Bangladesh – Trung Quốc – Ấn Độ – Miến Điện và Trung Quốc – Bán đảo Đông Dương. OBOR nhắm tới kết nối 5 lãnh vực: điều phối chính sách, xây dựng cơ sở hạ tầng, thương mại tự do, hội nhập tài chánh và giao lưu nhân dân mà trong đó kết nối cơ sở hạ tầng để xây dựng chuỗi giá trị giao thông, vận tải và loại bỏ ‘‘nút thắt cổ chai’’ là quan trọng nhất. Cơ sở hạ tầng gồm có đường sắt, đường cao tốc, cảng hàng không, cảng biển, viễn thông, và đường ống dẫn dầu, năng lượng và kho vận.
Một số người đã ví OBOR như kế hoạch Marshall của Mỹ. Thật ra, OBOR có tầm mức to lớn hơn nhiều. Kế hoạch Marshall là nhằm giúp đồng minh Hoa Kỳ tại Châu Âu phục hồi sau Đệ nhị Thế chiến để chống lại mầm mống đe dọa của khối cộng sản từ Liên Xô. Trong khi đó, OBOR có tham vọng kết nối hệ thống kinh tế của 65 quốc gia xuyên qua 3 lục địa có hệ thống chính trị, xã hội và văn hóa khác nhau. Nếu như Con đường Tơ lụa cổ đại đã được xây dựng từ dưới lên trên qua từng bước chân của giới thương gia thì OBOR là một đại kế hoạch đầy tham vọng được thiết kế từ trên xuống dưới bởi bộ phận đầu não từ Trung Nam Hải. Đây là một chiến lược thương mại toàn cầu xuyên lục địa chưa từng có trong lịch sử.
Nguyên nhân dẫn đến OBOR có ít nhất 3 điểm. Thứ nhất, sau khi Đặng Tiểu Bình tiến hành chính sách thực dụng ‘‘mèo trắng, mèo đen không quan trọng miễn là bắt được chuộc’’, Trung Quốc đã trở thành công xưởng thế giới cung cấp hàng tiêu thụ rẻ tiền cho thị trường toàn cầu. Phát triển kinh tế dựa vào xuất cảng giúp Trung Quốc đưa hơn 300 triệu dân thoát khỏi nạn đói nghèo cũng như tăng mức dự trữ ngoại tệ đến mức kỷ lục. Mặt trái của vấn đề là sự tàn phá môi trường khủng khiếp là cái giá mà người dân Trung Quốc phải trả qua nhiều thế hệ. Nhưng sau cuộc khủng hoảng tài chánh thế giới vào năm 2007, xuất cảng của Trung Quốc bắt đầu tụt giảm dẫn đến việc hàng hóa sản xuất dư thừa và nạn thất nghiệp. Trung Quốc phải đi tìm thị trường mới và hệ thống vận tải chuyên chở hàng hóa là một phần không thể thiếu được.
Thứ hai, phát triển kinh tế trong thời gian qua không có tính đồng đều. Các tỉnh duyên hải miên Đông nhờ vào giao thương mua bán với thế giới nên khá giả. Những khu vực phía Tây với địa hình hiểm trở thì vẫn đói nghèo dẫn đến tình trạng bất ổn cũng là động cơ cho các phong trào độc lập như ở Tân Cương và Tây Tạng. Khôi phục Con đường Tơ lụa và xây dựng các hành lang kinh tế về phía Tây có thể giúp nâng cao đời sống kinh tế cũng như phủ dụ các dân tộc thiểu số chấp nhận sự cai trị của Đảng CSTQ. Mặt khác cũng giải quyết được phần nào vấn nạn có hàng trăm triệu người di dân lao động từ các nơi hẻo lánh tràn về các thành phố miền Đông để tìm việc làm và tạo ra nhiều vấn nạn xã hội liên hệ.
Nhưng có lẽ lý do quan trọng nhất là để đối phó với chiến lược xoay trục về Châu Á của Tổng thống Obama và cụ thể là TPP. Thật ra TPP không mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho Mỹ nhưng rất nhiều ưu thế chiến lược. Với TPP, Mỹ sẽ viết ra điều luật và ấn định hệ thống giao thương cho toàn thế giới. Quan trọng hơn là cô lập Trung Quốc và không cho hoặc loại Trung Quốc ra khỏi một hệ thống thương mại tự do có tiêu chuẩn cao trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. OBOR là một thế trận nhằm phá vỡ vòng vây TPP. Bằng cách liên kết hệ thống vận tải với các nước trong khu vực trói buộc vận mệnh của các nền kinh tế khác với Trung Quốc, OBOR sẽ hóa giải hoặc ít nhất là giảm thiểu tác hại của TPP. OBOR không có Châu Mỹ và Châu Úc. Cùng với RCEP, Trung Quốc có thể loại Mỹ ra khỏi cuộc chơi để nắm vai trò lãnh đạo khu vực.
Nay thì TPP đã bị Tổng thống Trump khai tử. Nhưng OBOR vẫn phải đối diện với những thách thức khác. Thứ nhất, Putin vẫn thường xem khu vực Trung Á và Đông Âu là sân sau của Nga nên chắc chắn không khoanh tay ngồi yên để Tập dễ dàng xâm nhập. MRS cũng đang vướng phải lòng tin chiến lược với các quốc gia Đông Nam Á có tranh chấp chủ quyền lãnh hải với Trung Quốc tại Biển Đông gồm có Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai và Brunei. Thái độ hung hăng và hoạt động quân sự hóa Biển Đông trái với lời hứa của Tập Cận Bình là lý do chính đáng để mọi người ngờ vực về ý đồ của Trung Quốc. Ấn Độ cũng lo ngại về tham vọng xâm nhập và khống chế Ấn Độ Dương của Bắc Kinh qua kế hoạch thuê cảng nước sâu Gwadar 40 năm từ Pakistan. Tóm lại, dù không có sự hiện diện mạnh mẽ của Mỹ nhưng có dấu hiệu OBOR đang bị tắc nghẽn. Nhưng cũng không nên đánh giá thấp khả năng ngoại giao của Trung Quốc chẳng hạn như AIIB là một chiến thắng ngoại giao ngoạn mục của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ. Trong thời gian gần đây, Trung Quốc đã đạt một số thành quả trong nỗ lực siết chặt quan hệ với Phi Luật Tân, Thái Lan, Mã Lai và Việt Nam. Nếu RCEP hoàn tất trong năm nay, các quốc gia ASEAN càng có nhu cầu cấp bách cải thiện cơ sở hạ tầng để nâng sức cạnh tranh trong một khu vực thương mại tự do rộng lớn. Cuộc đua vai trò lãnh đạo và vị trí chiến lược tại Châu Á – Thái Bình Dương giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ vẫn còn gay go với nhiều yếu tố bất ngờ không thể lường trước được.
N.V.T.
Tác giả gửi BVN.