Chính phủ đang cân nhắc xây dựng chiến lược nợ mới, theo hướng có thể tăng tỷ lệ vay căn cứ trên điều kiện phát triển và khả năng thanh toán, thay vì chỉ giữ ở mức dưới 50% như hiện nay.
Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cho biết thông tin này khi trao đổi với báo chí sáng nay, bên lề phiên thảo luận của Quốc hội về tình hình kinh tế xã hội.
– Nợ quốc gia đang trở thành mối quan tâm rất lớn của nhiều đại biểu Quốc hội, đặc biệt trong tình hình khủng hoảng nợ công ở nhiều nơi trên thế giới. Chính phủ nhìn nhận vấn đề này thế nào, thưa Phó thủ tướng?
– Ngày nay, nợ quốc gia được thị trường hóa trên thị trường tài chính quốc tế. Trái phiếu của người phát hành ra đều do các tổ chức tài chính trung gian mua vào. Vì vậy, nợ quốc gia không chỉ là vấn đề của chính quốc gia ấy. Nợ quốc gia của một số nước phát triển đang diễn biến xấu, nó ảnh hưởng không chỉ tới kinh tế của các nước đó, mà còn ảnh hưởng tới cả thị trường tài chính, tiền tệ, các hoạt động sản xuất kinh doanh toàn cầu. Chúng ta cũng phải đề phòng.
Chủ trương của chúng ta từ lâu đã đưa ra hệ số an toàn cho việc vay nợ. Tỷ lệ này thường được đưa ra phù hợp với điều kiện sức khỏe của từng nước. Có nước có thể trên 100% GDP, xấp xỉ 100%, dưới 100%. Còn nước ta khoảng 50% GDP.
– Phó thủ tướng đánh giá khả năng trả nợ của nước ta thế nào?
Các chỉ số tài chính 2009:
– Bội chi ngân sách: 6,9% GDP, tương đương 115.900 tỷ đồng
– Nợ Chính phủ: 41,9% GDP
– Nợ nước ngoài: 38,9% GDP
– Sau khi xử lý xong nợ của thời kỳ bao cấp, mình trở lại một nước sòng phẳng về nợ nần. Vay mới những năm gần đây đang kiểm soát ở mức dưới 50% GDP, chủ yếu từ nguồn ODA và dài hạn là chính. Vay ODA có thời hạn rất lâu, 30-40 năm, để khi mình phát triển rồi thì có khả năng trả nợ. Cơ cấu nợ cũng được tính toán kỹ, ngoài khoản nợ quốc gia, phần cho doanh nghiệp phải chọn lọc những nơi đầu tư hiệu quả và có khả năng trả nợ. Bởi vay cho doanh nghiệp nhưng quốc gia phải đứng ra bảo đảm, vì vậy cũng có ý nghĩa và trách nhiệm của quốc gia.
Giai đoạn tới, Việt Nam chuyển từ nước kém phát triển sang mức trung bình thấp. Mình có thể bắt đầu vay một số khoản dành cho hạ tầng, giáo dục đào tạo, làm trường, đầu tư vào các vùng nghèo. Những khoản đầu tư này chưa thể đi vào ICOR ngay được. Đầu tư làm điện ở miền núi hay cơ sở hạ tầng cho đồng bào vùng sâu vùng xa, đầu tư giảm nghèo, cải tạo đồng ruộng… hiệu quả đầu tư thường thấp.
Năm nay Chính phủ sẽ tính toán để xây dựng chiến lược nợ mới, cân nhắc trong giai đoạn phát triển trung bình thì mức an toàn bao nhiêu là hợp lý. Đây đang là câu hỏi, còn phụ thuộc vào việc đất nước mình trong 10 năm tới, 20 năm tới phát triển với tốc độ nào, có bền vững không.
– Vậy tỷ lệ dư nợ quốc gia sẽ thay đổi ra sao?
– Trong giai đoạn nền kinh tế phát triển thấp, mình giữ ở mức 50%. Nhưng nếu trong trung hạn và dài hạn, khả năng phát triển cao hơn, làm ra nhiều của cải và có nhiều nguồn thu, khả năng trả nợ sẽ lớn hơn. Khả năng trả nợ lớn hơn thì mình có thể vay cao hơn. Vay cao hơn bao nhiêu, cần phải tính.
– Trong chiến lược vay nợ mới, Chính phủ có tính toán tới thực tế là nền kinh tế nước nhà đã phát triển ở một mức độ khác, điều kiện vay ODA vì thế sẽ khắt khe hơn, lãi suất cao hơn và thời gian trả nợ ngắn hơn?
– Ngoài việc xem xét tỷ lệ dư nợ mới là bao nhiêu, chúng ta cũng cân nhắc lại cơ cấu, kể cả nợ quốc gia và nợ nước ngoài của Chính phủ, xem Chính phủ vay bao nhiêu, doanh nghiệp vay bao nhiêu. Vay ODA có nhiều hình thức khác nhau, có tài trợ kỹ thuật không hoàn lại, vay ưu đãi và vay mang tính chất tín dụng. Thường thì những khoản có lãi suất phải để cho doanh nghiệp, anh nào trả được thì tùy sức mà tính toán.
Thời hạn vay dài hay ngắn cũng cần được tính toán. Đây đều là các yếu tố kỹ thuật chi tiết. Nếu mình không lên một bài toán chiến lược tổng thể, không có tầm nhìn dài thì đến một lúc nào đó, đến ngày trả nợ mà mình không thanh toán được thì rất bất cập. Chẳng hạn Hy Lạp hiện nay, hay Argentina trước đây. Argentina cách đây 5-7 năm cũng lâm vào tình cảnh khủng hoảng nợ quốc gia. Nguyên nhân chính của họ là bảo lãnh cho doanh nghiệp vay quá nhiều sau đó chuyển từ nợ doanh nghiệp sang nợ Chính phủ. Và Chính phủ trở thành con nợ vô cùng lớn.
– Tới đây chúng ta có nhiều đề án lớn phải triển khai, trong đó có dự án đầu tư đường sắt cao tốc Bắc Nam 56 tỷ USD hay quy hoạch vùng Thủ đô. Kế hoạch vay nợ phục vụ cho các dự án này thế nào?
– Đây là bài toán tổng thể. Chúng ta tính một phần sẽ vay ODA, trong đó có khoản tài trợ không hoàn lại, tài trợ kỹ thuật chẳng hạn, hay các khoản có lãi thấp. ODA thường là nguồn từ các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (World Bank) hay Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Đây thực ra là quỹ của thế giới, chúng ta là cổ đông có cổ phần trong đó, thuộc diện những nước được ưu tiên hơn, vì vậy phải tranh thủ nguồn đó.
Các khoản vay khác mình phải chuyển dần sang đầu tư. Lâu nay khi cổ phần hóa doanh nghiệp hay ngân hàng, chúng ta vẫn để nhà đầu tư nước ngoài vào mua cổ phần. Khi mua như vậy, họ sẽ mang vốn vào đầu tư, lời ăn lỗ chịu, chứ mình không phải đi vay. Nếu mà phải đi vay để đầu tư 100% thì không ổn.
SL