Bài bào chữa cho ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy tại phiên tòa Phúc thẩm Tòa án cấp cao tại Hà Nội ngày 22 tháng 09 năm 2016

Luật sư Trần Quốc Thuận

Thưa Hội đồng xét xử Tòa án cấp cao Hà Nội,

Tôi, Luật sư Trần Quốc Thuận, Văn phòng Luật sư Hà Hải & Cộng sự, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, địa chỉ 535 Nguyễn Tri Phương, Phường 6, Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh, là Luật sư bào chữa cho ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy bị Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử Sơ thẩm tại Bản án số 96/2016/HSST ngày 23 tháng 03 năm 2016 về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” theo khoản 2 Điều 258 Bộ Luật Hình sự (Cáo trạng số 05/VKSTC. V2 ngày 06 tháng 02 năm 2015 của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao) với mức án Nguyễn Hữu Vinh năm năm tù, Nguyễn Thị Minh Thúy ba năm tù.

Trước khi trình bày nội dung bài bào chữa, tôi kiến nghị Hội đồng xét xử một số việc như sau:

+ Hiện nay ngành tư pháp đang triển khai, tổ chức thực hiện “Cải cách tư pháp” theo Nghị quyết 48 của Bộ Chính trị. Năm 2015, Quốc hội thông qua Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS), Bộ luật Hình Sự (BLHS), có hiệu lực thi hành ngày 01/07/2016, tạm hoãn thi hành đến ngày 01/01/2017, trong đó có phần quan trọng là thể chế “quyền con người” theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 và các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia. Vì vậy phiên tòa hôm nay phải được diễn ra đúng theo tinh thần mới này, trong đó cơ quan tố tụng phải tuân theo qui định của Hiến pháp 2013, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (khoản 1). Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trong trường hợp xét xử kín theo qui định của luật thì việc tuyên án phài được công khai (khoản 2). Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật (khoản 5) (Điều 31, Hiến pháp 2013).

 

Tòa án là khâu trung tâm của quá trình cải cách tư pháp, xét xử là khâu trọng tâm của toàn bộ hoạt động tư pháp bởi vì thực chất hiệu quả của hoạt động tư pháp thể hiện chủ yếu ở hoạt động xét xử, ở bản án hay quyết định của toà án, nếu án đúng thấy ngay kết quả, nếu án sai là hoạt động không có hiệu quả. Các hoạt động khác của tiến trình tư pháp như điều tra, kiểm sát, truy tố, v.v. nếu có sai phạm vẫn có thể khắc phục được và ít để lại hậu quả nhưng nếu xét xử sai, hậu quả để lại rất lớn và đôi khi không thể nào khắc phục được, khó phục hồi nguyên trạng như trước khi điều tra, kiểm sát, truy tố, v.v. Đảng và Nhà nước ta cũng chủ trương trong giai đọan hiện nay cần nâng cao vai trò của Luật sư hơn nữa trong tiến trình tham gia tố tụng, đảm bảo vị trí cân bằng của Luật sư và bên công tố khi tham gia xét xử.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội đã thông qua Nghị quyết chống oan sai. Lãnh đạo ngành Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an phát động kế hoạch “chống oan sai” với các khâu đột phá, trong đó chú trọng phát huy vai trò của Luật sư tranh tụng trước tòa, sự tham gia của Luật sư từ khâu khởi tố – điều tra, công khai minh bạch. Kết quả bản án là kết quả tranh tụng diễn ra tại phiên tòa.

Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này (BLTTHS) qui định, thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội (Đoạn 2, Điều 13, Suy đoán vô tội – BLTTHS 2015)

Nhưng phiên tòa sơ thẩm ngày 23/03/2015 của Tòa án Nhân dân Hà Nội do Thẩm phán Nguyễn Văn Phổ chủ tọa đã diễn ra không đúng theo tinh thần trên, điều hành phiên tòa không tuân thủ theo qui định của pháp luật về Tố tụng Hình sự, thậm chí ban hành bản án có nhiều nội dung trái pháp luật.

Ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy đã kháng cáo toàn bộ bản án. Vì vậy, chúng tôi sẽ nêu lại toàn bộ những nội dung mà Bản cáo trạng và Bản án đã nêu ra. Chúng tôi đề nghị phiên tòa Phúc thẩm của Tòa án cấp cao Hà Nội hôm nay diễn ra đúng theo tinh thần và lời văn của Hiến pháp 2013 và Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Thưa Hội đồng xét xử,

Tôi xin trình bày với Hội đồng xử án những dấu hiệu vi phạm trong quá trinh Điều tra, Lập Cáo trạng, Xét xử Sơ thẩm của vụ án như sau:

I. Điều tra bổ sung không tìm được chứng cứ quan trọng đối với vụ án nhưng vẫn không thay đổi Cáo trạng truy tố, xét xử.

Theo qui định tại khoản 1, Điều 168 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2003 quy định Viện kiểm sát ra quyết định để điều tra bổ sung khi nghiên cứu hồ sơ vụ án phát hiện thấy còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được.

Sau khi có Kết luận điều tra của Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an (ngày 30/10/2014) và Cáo trạng của VKSTC (ngày 27/11/2014). Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đã 5 lần ra quyết định yêu cầu điều tra bổ sung. Nhưng Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an sau 5 lần điều tra bổ sung vẫn không trả lời được với lý do: “bị can không chịu khai báo”, không có điều kiện xác minh, làm rõ”, không thể xác minh”, chứng cứ chỉ hỗ trợ”, không cần thiết làm rõ chức năng nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, chứng cứ…” và gần như không có thêm chứng cứ hợp pháp nào để chứng minh cho việc kết tội. Tuy vậy, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao vẫn không thay đổi Cáo trạng.

1) Yêu cầu điều tra bổ sung lần thứ nhất: Ngay khi nhận Bản Kết luận điều tra số: 14/ANĐT ngày 30/10/2014 của Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an, ngày 27/11/2014 Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao (Vụ 2) ra Quyết định trả Hồ sơ để điều tra bổ sung số 18/QĐ-VKSTC-V2.

Sau gần hai tháng, ngày 26/01/2015 Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an có Kết luận điều tra bổ sung số 03/KLĐTBS, trả lời như sau:

Đối với yêu cầuĐiều tra, làm rõ nguồn gốc, tác giả của 24 bài viết được đăng tải trên hai blog Dân QuyềnChép Sử Việt có tiêu đề như kết luận điều tra đã nêu có được các bị can chỉnh sửa nội dung trước khi đăng tải không? Xác định rõ tính chất, mức độ hành vi, vai trò của các tác giả và có biện pháp xử lý đúng theo qui định của pháp luật.

Cơ quan điều tra đã hỏi cung các bị can Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Thị Minh Thúy trong giai đoạn điều tra và hỏi lại trong giai đoạn điều tra bổ sung, nhưng hai bị can không chịu khai báo, nên cơ quan điều tra không có điều kiện xác minh, làm rõ: Ai là tác giả của 24 bài viết được đăng tải trên hai blog Dân QuyềnChép Sử Việt có tiêu đề như kết luận điều tra đã nêu; các bị can có chỉnh sửa nội dung trước khi đăng hay không”.

Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an không chứng minh được Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy “có chỉnh sửa nội dung trước khi đăng” hay không thì không thể kết luận Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy là đồng sáng lập và “quản trị” hai blog Dân QuyềnChép Sử Việt”. Đây là chứng cứ có ý nghĩa quyết định.

Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an cũng không trả lời được rõ nguồn gốc, tác giả của 24 bài viết được đăng tải trên hai blog Dân QuyềnChép Sử Việt có tiêu đề như kết luận điều tra đã nêu và không xác định rõ tính chất, mức độ hành vi, vai trò của các tác giả và có biện pháp xử lý đúng theo qui định của pháp luật”.

Nội dung 24 bài viết nếu bị kết tội, thì đây là loại tội thuộc nhóm tội “cấu thành vật chất” có nghĩa là các nội dung trong các bài này phải “gây hại” cho cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Không chứng minh được Nguyễn Hữu Vinh – Nguyễn Thị Minh Thúy là người có hành vi “chỉnh sửa” tức là người thực hiện quyền “Quản trị” hai blogs; không chứng minh được 24 bài đăng trên hai blogs đã “gây hại” cho bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào, thì các hành vi này (nếu có) “chưa cấu thành tội phạm, chưa đủ yếu tố để truy tố. (Phải chăng người bị hại, có thể có, là một trong những người mà 24 bài báo đã nêu tên: ông Hoàng Công Tư, Thủ trưởng cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an, người chỉ huy điều tra vụ án).

Nhưng trên thực tế, thì họ tên các tác giả của 24 bài viết ai cũng có thể biết. Thậm chí một số tác giả đã có thư gửi Phiên tòa Sơ thẩm Tòa án Hà Nội xác định mình là tác giả và sẵn sàng có mặt tại phiên xét xử Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy từ phiên tòa ngày 19/01/2016 bị hoãn và phiên tòa 23/03/2016 cụ thể:

Bài 3 “Chuyện kể năm 2000: Cuốn tiểu thuyết về thân phận con người trong cái ác cộng sản”. Tác giả là Đại tá Phạm Đình Trọng.

Bài 5 “Ông trời con Hoàng Công Tư vs BBC Việt ngữ” của ba nhà báo: Đoan Trang, Trịnh Hữu Long, Nguyễn Anh Tuấn.

Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an nêu lý do “hai bị can không chịu khai báo”. Nhưng cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Toà án đã không thực hiện nhiệm vụ của mình theo qui định của luật:

Điều 10. BLTTHS 2003. Xác định sự thật của vụ án

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.

Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”.

Mặc dù cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an không “làm rõ những chứng cứ xác định có tội”, không trả lời được các yêu cầu của mình, nhưng ngày 06/02/2015, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao vẫn ra Cáo trạng số 05/VKSTC-V2 với nội dung như Bản Kết luận điều tra, quyết định truy tố ra trước Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy theo khoản 2 Điều 258, BLHS; ủy quyền cho Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố Hà Nội thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm”.

2) Yêu cầu điều tra bổ sung lần thứ 2, 3 và 4 của VKSTC về Đảng tịch Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam của Nguyễn Hữu Vinh theo qui định của Chỉ thị 15 ngày 07 tháng 07 năm 2007 của Bộ Chính trị, Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an không trả lời được. VKSTC-V2 vẫn không thay đổi Cáo trạng.

Sau ba lần Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an điều tra bổ sung (11/KLĐTBS ngày 22/03/2015; 21/KLĐTBS ngày 07/08/2015; 26/KLĐTBS ngày 22/10/2015) theo yêu cầu của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (QĐ: 05/VKSTC-V2 ngày 23/04/2015; 08/VKSTC-V1 ngày 08/07/2015; 09/VKSTC-V1 ngày 24/08/2015) về đảng tịch Đảng Cộng sản của Nguyễn Hữu Vinh vẫn không trả lời được, nhưng Bản Cáo trạng vẫn không thay đổi. Trước tòa Sơ thẩm Tòa án Nhân dân Hà Nội, ngày 23/03/2015, Thẩm phán Nguyễn Văn Phổ, Chủ tọa phiên tòa, ngăn cản không cho Luật sư và Nguyễn Hữu Vinh nêu ra vấn đề Đảng viên và cũng không ghi chi tiết này vào nội dung Bản án Sơ thẩm.

3) Yêu cầu điều tra bổ sung lần thứ 5, Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an vẫn không đưa ra được “chứng cứ hợp pháp” chứng minh Nguyễn Hữu Vinh là “Quản trị” hai blogs “Dân quyền” và “Chép sử Việt”. Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao vẫn giữ nguyên Cáo trạng.

Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an căn cứ vào thông tin của các văn bản của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông (Công ty cổ phần viễn thông FPT, Công ty điện toán và truyền dẫn số liệu VDC, Công ty cổ phần viễn thông Hà Nội HTC, Công ty dịch vụ viễn thông Vinaphone) để cho rằng các thông tin được cung cấp có liên quan quan đến ông Vinh, bà Thúy mà không thực hiện các việc phải chứng minh theo qui định của BLTTHS tại Điều 63 (Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự) Điều 64, Điều 65 (Chứng cứ – Thu thập chứng cứ), Điều 66 (Đánh giá chứng cứ). Không tổ chức trưng cầu giám định, tổ chức thực nghiệm là vi phạm các qui định tại các điều nêu trên của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tại văn bản số 21/KLĐTBS ngày 07/08/2015 Kết luận điều tra bổ sung theo Quyết định trả Hồ sơ để điều tra bổ sung số 08/VKSTC-V1 ngày 08/07/2015 của Viện kiểm sát Nhân dân tối cao (Vụ 1) với yêu cầu “Làm rõ chức năng nhiệm vụ của Công ty cổ phần viễn thông FPT; Công ty điện toán và truyền dẫn số liệu VDC; Công ty cổ phần viễn thông Hà nội HTC; Công ty dịch vụ Viễn thông Vinaphone”, Cơ quan An ninh Điều tra Bộ Công an cho rằng “Tài liệu do các công ty viễn thông cung cấp chỉ hỗ trợ cho việc chứng minh ý thức chủ quan đối với hành vi phạm tội của các bị can. Ngoài những tài liệu này, cơ quan điều tra đã thu thập đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các bị can trong vụ án. Do đó không cần thiết phải làm rõ chức năng, nhiệm vụ của các Công ty đã nêu trên”.

Như vậy, các văn bản do các doanh nghiệp trên cung cấp “chỉ hỗ trợ” không đảm bảo tính khách quan, tính hợp pháp để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông Nguyễn Hữu Vinh, bà Nguyễn Thị Minh Thúy. Cơ quan An ninh Điều tra lại chỉ ra “Ngoài những tài liệu này, cơ quan điều tra đã thu thập đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các bị can trong vụ án”.

Đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội” nào? Phải chăng là những ghi chép trong các “sổ nhật ký”, là những tài liệu tải xuống từ Internet đang nối với đường truyền tốc độ cao không hợp pháp, sẽ nêu dưới đây, hay là các thông tin mà các cơ quan tổ chức bưu chính viễn thông: FPT, VDC, HTC, Vinaphone đã cung cấp theo yêu cầu của Cơ quan an ninh – Bộ Công an về ngày, giờ, thời gian mà Nguyễn Hữu Vinh “giao diện” trên hai blogs. “Giao diện” là đang đọc tin trên hai blogs “Dân Quyền” “Chép Sử Việt”. Vấn đề quan trọng là không có chứng cứ, dấu vết nào để Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an và cả VKSTC chứng minh cho thấy Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy là người đã, đang thực hiện các quyền của người Quản trị hai blogs để viết bài, chỉnh sửa bài viết, xóa bài viết, đăng tải bài viết lên hai blogs, kiểm duyệt ý kiến bình luận của người đọc…”.

Theo Bản kết luận điều tra của Cơ quan An ninh điều tra, Bộ Công an số 14/ANĐT ngày 30/10/2014 và Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 05/VKSNDTC-V2 ngày 06/02/2015, thì từ ngày 20/09/2013 (theo cơ quan điều tra là ngày Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Thị Minh Thúy lập hai blog Dân QuyềnChép Sử Việt đến ngày bị bắt (05/05/2014), blog Dân Quyền đã đăng 2014 bài viết, 38.567 phản hồi và có 3.243.330 người truy cập; blog Chép Sử Việt đã đăng 383 bài viết, 3.401 phản hồi và có 480.353 người truy cập.

Với 383 đến 2014 bài viết đã đăng, từ 480.353 đến 3.243.330 người truy cập… trên hai blogs, nhưng sau 23 tháng, Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an vẫn không tìm được dấu vết, chứng cứ chứng minh Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy là người đã, đang có hành vi thực hiện các thao tác trên với tư cách là người “Quản trị” hai blogs “Dân Quyền” và “Chép sử Việt”, kể cả “Hành vi sửa bài trước khi đăng” như đã nêu ở trên.

Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an lại chuyển sang tìm mật mã – tài khoản số điện thoại và địa chỉ Email của Vinh và Thúy. Nhưng theo chánh sách bảo mật của Google, công ty cung cấp dịch vụ Gmail, thì Google không cung cấp thông tin cho bất kỳ ai, trừ khi có trát đòi hoặc theo yêu cầu của người dùng. Họ sử dụng chứng chỉ bảo mật SSL (Secure Sockets Layer), một chứng chỉ bảo mật qua giao tiếp Internet, để bảo mật tài khoản người dùng. Vì vậy, công ty cung cấp dịch vụ mạng, cụ thể trong vụ này là các công ty: VDC, FPT, Vinaphone, HTC cũng không thể biết thông tin tài khoản của người khác. Nếu bằng nghiệp vụ chuyên môn biết được, thì chứng cứ đó là chứng cứ bất hợp pháp. Các chứng cứ này, nếu có, cũng phải qua một cơ quan, tổ chức hợp pháp thẩm định. Việc này không được thực hiện. Cứ cho rằng Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an biết được số điện thoại và Email của Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy để truy cập vào hai blogs, nhưng truy cập để đọc tin như hàng vạn, hạng triệu người truy cập khác, thì không thể kết tội được.

II. Nhiều hành vi điều tra vụ án của Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an, vi phạm nghiêm trọng Bộ Luật Tố tụng Hình sự theo qui định tại Thông tư liên tịch số: 01/2010 TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27 /08/2010 v/v “Hướng dẫn thi hành các qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao – Bộ Công an – Tòa án Nhân dân Tối cao.

a) Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an đã vi phạm nghiêm trọng qui định Điều 42 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm i, khoản 2 Điều 4 TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC số 01/2010 ngày 27/08/2010, không từ chối hay thay đổi người tiến hành tố tụng.

Trung tướng Hoàng Công Tư là Thủ trưởng cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an chủ trì điều tra vụ án “Nguyễn Hữu Vinh – Nguyễn Thị Minh Thúy” lại là người có tên trong bài “Ông trời con Hoàng Công Tư vs BBC đăng ngày 30/04/2014 thuộc danh sách 24 bài báo được cho là “có hại”. Ông Hoàng Công Tư không từ chối hoặc thay đổi vai trò tiến hành tố tụng.

b) Không giải quyết khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không được giải quyết đúng theo qui định của pháp luật đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của họ: điểm o, khoản 2 Điều 4 TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC Số 01/2010 ngày 27/08/2010.

Theo Nguyễn Hữu Vinh, thì Vinh đã gửi đến Tòa án thành phố Hà Nội các thư đề ngảy cụ thể: ngày 10/02/2015 (25 trang) gửi Tòa án; ngày 23/11/2015 (55 trang). Một số thư Cán bộ Trại B 14 không gửi: ngày 05/03/2015; ngày 26/05/2015; ngày 03/06/2015; ngày 11/12/2015… Thư mới gửi chưa hồi âm ngày 26/02/2016: 58 trang và gần đây là đơn gửi tòa án cấp cao Hà Nội dài trên 70 trang… cùng nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo của bà Lê Thị Minh Hà, vợ Nguyễn Hữu Vinh.

Tất cả các đơn thư khiếu nại nêu trên của ông Nguyễn Hữu Vinh đều không được các cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Tòa án Nhân dân Hà Nội trả lời về các nội dung nêu trong đơn.

c) Việc điều tra, thu thập chứng cứ quan trọng đối với với “một số tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin không đúng trình tự, thủ tục theo hướng dẫn thi hành BLTTHS nên không có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự: điểm k, khoản 2 Điều 4 TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC số 01/2010 ngày 27/08/2010.

Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an đã vi phạm nghiêm trọng Bộ Luật Tố tụng Hình sự và Thông tư liên tịch Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao và Tòa án Nhân dân Tối cao số: 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTT&TT-VKSNDTC-TANDTC ngày 10 tháng 09 năm 2012 “hướng dẫn áp dụng qui định của Bộ luật Hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực Công nghệ Thông tin. Khi khám xét, Cơ quan điều tra vẫn duy trì máy tính (laptop) nối với đường truyền Internet tốc độ cao để lấy (download), in tài liệu làm chứng cứ buộc tội.

III. Tòa án Sơ thẩm Tòa án nhân dân Hà Nội đã đưa “Chứng cứ không hợp pháp” để buộc tội.

Tại phiên tòa của Tòa án Nhân dân Hà Nội ngày 23/03/2016, trước những lập luận của tôi, Luật sư Trần Quốc Thuận và 6 Luật sư khác cùng Nguyễn Hữu Vinh – Nguyễn Thị Minh Thúy đã bác bỏ toàn bộ các chứng cứ buộc tội mà bản Cáo trạng đã nêu ra; chỉ ra nhiều hành vi của Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an trong quá trình điều tra đã vi phạm nghiêm trọng qui định của BLTTHS và các thông tư liên ngành hướng đẫn thi hành BLTTHS, hai kiểm sát viên giữ quyền công tố “không đưa ra được lập luận của mình đối với từng ý kiến”, và chủ tọa phiên tòa không thực hiện quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh tụng (Điều 218, BLTTHS). Khi Luật sư yêu cầu trả lời các ý kiến của Luật sư và bị cáo, nếu không trả lời, thì có nghĩa là ý kiến của Luật sư và của bị cáo là đúng, có nghĩa là các hành vi của ông Vinh bà Thúy “không đủ yếu tố cấu thành tội phạm”, Chủ tọa phiên tòa [và] hai vị Hội thẩm nhân dân đều im lặng.

Phải chăng vì không trả lời, giải đáp được các lập luận bào chữa, không bảo vệ được bản Cáo trạng, nên khi nghị án, Chủ tọa phiên tòa đã đưa ra “hành vi tội danh mới” để buộc tội. Nhưng chứng cứ, hành vi đó không phải là “những hành vi theo tội danh của Viện kiểm sát truy tố và tòa án đã quyết định đưa ra xét xử’ theo qui định Điều 196 “Giới hạn xét xử” (BLTTHS): “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh của Viện kiểm sát truy tố và tòa án đã quyết định đưa ra xét xử”.

“Hành vi chứng cứ mới” thực chất là trên 10 trang (từ trang 08 đến trang 18 của Bản án), lấy từ cuốn sổ tay Notebook; Bản nhật ký 8 trang; cuốn sổ tay Heeton… Đây là những hành vi không theo tội danh của Viện kiểm sát truy tố và tòa án đã quyết định đưa ra xét xử; ngay cả Bản kết luận điều tra số: 14/ANĐT ngày 30/10/2014 của Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an cũng không có các hành vi, chứng cứ có nội dung này. Điều quan trọng nữa là tất cả các hành vi này (“về các ghi chép trong nhật ký”) không được đưa ra phiên tòa để kiểm chứng tranh luận. Đây là “chứng cứ không hợp pháp”.

Khi nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa (khoản 3, Điều 222 BLTTHS 2003). Nhưng Biên bản Nghị án cho thấy Thẩm phán và hai vị Hội thẩm chưa thực hiện đúng theo qui định này; lại lấy “các chứng cứ và tài liệu” (các ghi chép trong nhật ký) chưa được thẩm tra tại phiên tòa để vừa “luận tội” vừa “kết tội”, tạo ra một Bản án không hợp pháp.

Điều tôi quan tâm, ray rứt là từ Bản Kết luận điều tra ban đầu của Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an CA đến 5 lần yêu cầu Điều tra bổ sung của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao mà Cơ quan An ninh Điều tra – Bộ Công an vẫn không đáp ứng được, nhưng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao vẫn không thay đổi Bản Cáo Trạng, thực chất là vẫn giữ nguyên “sao chép” Bản Kết luận Điều tra ban đầu. Tiếp đến là Bản án lại ghi lại những nội dung mà Bản Kết luận điều tra và Cáo trạng đã ghi, không trả lời các ý kiến bào chữa của bị cáo và các luật sư, thêm vào đó là đưa vào “chứng cứ không hợp pháp, chứng cứ không theo tội danh truy tố của Viện Kiểm sát và Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử”, quyết “kết án cho bằng được” Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy.

Đến nay, tôi vẫn chưa có tiên liệu kết quả phiên tòa phúc thẩm, nhưng tôi đề nghị Hội đồng phúc thẩm nên xem xét kỹ lại hoàn cảnh và nhân thân của các bị cáo để có hình thức xử lý thích hợp đối với từng bị cáo. Trước hết với Nguyễn Hữu Vinh nguyên là sĩ quan an ninh Bộ Công an, đã lập thành tích, có bố mẹ đều là Cách mạng lão thành. Bố là cụ Nguyễn Hữu Khiếu đã từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt nam, Giám đốc Công an khu 4, Đại sứ tại Liên Xô cũ, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương Binh và Xã hội. Đối với Nguyễn Thị Minh Thúy, bà chỉ là nhân viên làm việc hưởng lương của Vinh, theo tôi được biết, thì đến nay Vinh còn tiếp tục trả lương để Thúy nuôi hai con. Thúy đã thôi chồng, hai con còn nhỏ đang ở với ông bà già yếu.

Những trình bày nêu trên cho thấy đây là một “Bản án không hợp lệ, không hợp pháp”. Theo tinh thần tuân thủ Hiến pháp 2013, Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2015, tôi đề nghị Hội dồng xử án hôm nay:

Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này qui định, thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội (Đoạn 2, Điều 13, Suy đoán vô tội – Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2015).

KIẾN NGHỊ

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 248, khoản 2 điều 107, Điều 251 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003,

*Viện Kiểm sát nhân dân tối cao rút toàn bộ Cáo trạng số 05/VKSTC. V2 Ngày 06 tháng 02 năm 2015 của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao “quyết định truy tố đối với ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy theo khoản 2 điều 258, BLHS”;

*Tòa án Nhân dân Cấp cao Hà Nội ra quyết định hủy án Hình sự sơ thẩm của Tòa án Nhân dân Hà nội tại Bản án số: 96/2016/HSST ngày 23 tháng 03 năm 2016 về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” theo khoản 2 Điều 258 Bộ Luật Hình sự (Cáo trạng số 05/VKSTC. V2 ngày 06 tháng 02 năm 2015 của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao) với mức án Nguyễn Hữu Vinh 05 năm tù; Nguyễn Thị Minh Thúy 03 năm tù;

*Tuyên bố hành vi của ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy “không cấu thành tội phạm hình sự”;

* Tuyên bố trả tự do ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy.

T. Q. T.

Tác giả gửi BVN.

This entry was posted in Nhân Quyền. Bookmark the permalink.