Liên quan tới việc mua sắm vũ khí của Việt Nam trong thời gian gần đây, giới quan sát cho rằng Việt Nam đang hiện đại hóa quân sự để đối phó với việc tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Để tìm hiểu thêm Việt Nam đã mua sắm các loại vũ khí nào trong thời gian qua, ý kiến của các chuyên gia và các nước láng giềng liên quan đến vấn đề này ra sao, cũng như việc mua sắm vũ khí đó liệu có giúp gì cho Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông hay không, mời quý vị cùng Thông tín viên Ngọc Trân điểm qua các sự kiện có liên quan.
Chiến đấu cơ của Nga
Trước các diễn biến càng ngày càng phức tạp ở biển Đông, Việt Nam đã và đang thực hiện các hợp đồng mua sắm vũ khí và thiết bị quân sự của một số nước trên thế giới.
Đầu năm 2009, Việt Nam ký hợp đồng với Cục Xuất khẩu Vũ khí Nga, mua 8 chiến đấu cơ hiện đại loại SU 30-MK2 (MKK: Mnogofunktzionniy Kommercheskiy Kitayski – Multifunctional Commercial for China – Máy bay chiến đấu đa năng thương mại cho Trung Quốc). Đầu năm nay, Việt Nam đặt mua tiếp 12 chiến đấu cơ loại này, trị giá hơn 500 triệu đô la. Đây là loại máy bay quân sự do Công ty hàng không Sukhoi của Nga sản xuất và đưa vào hoạt động kể từ năm 2000.
SU 30-MK2 là loại máy bay chiến đấu đa chức năng, vừa có khả năng dò tìm, tuần tra và bảo vệ, vừa có khả năng tấn công và tiêu diệt các mục tiêu của đối phương trên không, trên bộ và trên biển. Ngoài ra, máy bay này còn có thể tiêu diệt các trạm tên lứa phòng không và làm tê liệt các hoạt động của đối phương từ trên không.
Máy bay chiến đấu này có hai chỗ ngồi, được trang bị một hệ thống điều khiển hỏa lực và hệ thống ngắm mục tiêu gắn trên mũ bay, giúp phi công phát hiện mục tiêu trên không, trên biển và trên bộ, cũng như tiêu diệt các mục tiêu đó trong mọi điều kiện về thời tiết và thời gian.
Mua tàu ngầm hiện đại
Ngoài việc mua chiến đấu cơ của Nga, Việt Nam cũng đã ký hợp đồng mua tàu ngầm của nước này. Cuối tháng 4 năm ngoái, Việt Nam đã đặt mua 6 tàu ngầm loại kilo 636, trị giá khoảng 1,8 tỷ đô la, hợp đồng được cho là chiếm toàn bộ ngân sách quốc phòng của Việt Nam trong năm 2009. Với sáu chiếc tàu ngầm này, Việt Nam sẽ sở hữu nhiều tàu ngầm hiện đại nhất trong khu vực, chỉ đứng sau Trung Quốc.
Đây là loại tàu ngầm chạy bằng dầu diesel trên mặt nước và chạy bằng điện khi lặn dưới nước. Tàu ngầm này được sử dụng với mục đích chống tàu chiến và tàu ngầm của đối phương, nó có khả năng vận hành rất êm vì khả năng “tàng hình” của nó, nên được Hải quân Hoa Kỳ gọi là “Hố đen” (Black Holes).
Tàu ngầm kilo 636 nặng khoảng 2.300 tấn, được trang bị 8 tên lửa phòng không, cùng 18 quả ngư lôi, với thủy thủ đoàn tối đa là 52 người. Tàu ngầm này có thể lặn dưới nước ở độ sâu tối đa 300 m, và độ sâu tác chiến từ 240 – 250m, khi ở dưới nước, nó có thể di chuyển với vận tốc nhanh nhất là 40 km/ giờ và nó có thể đi trên biển khoảng 45 ngày mà không cần tiếp nhiên liệu.
Ngoài các trang thiết bị hiện đại khác, tàu ngầm này còn được trang bị một loại sonar giúp phát hiện sóng âm, mà tàu nổi cũng như các loại tàu ngầm khác phát ra ở khoảng cách rất xa. Do đó, tàu ngầm này có khả năng tránh được radar dò tìm, cũng như khả năng phát hiện và tiêu diệt tàu ngầm và tàu chiến của đối phương trên mặt biển.
Thủy phi cơ của Canada
Ngoài các hợp đồng mua tàu ngầm và chiến đấu cơ kể trên, Việt Nam còn mua thủy phi cơ của Canada. Công ty Viking Air của Canada vừa đưa tin, đã ký hợp đồng bán cho Việt Nam sáu chiếc thủy phi cơ DHC-6 Twin Otter Series 400, trị giá mỗi chiếc là 5 triệu đô la Canada. Đây là lần đầu tiên Việt Nam đặt mua phi cơ do phương Tây sản xuất.
Loại phi cơ này dành cho phi hành đoàn không quá 2 người và có thể chở 19 hành khách, tốc độ bay tối đa khoảng 340 km/giờ và có thể bay ở độ cao khoảng 1.700 km. Phi cơ này vừa đáp được cả trên bộ lẫn dưới nước, thích hợp cho những nước mới bắt đầu sử dụng máy bay Hải quân như Việt Nam, trong vai trò tuần tra trên biển.
Phi cơ này được thiết kế để phục vụ các hoạt động trên biển như: vận chuyển, tiếp liệu, tuần tra trên biển, tìm kiếm và cứu hộ, và sẽ trở thành lực lượng không quân đầu tiên của Hải quân Việt Nam.
Ba trong số 6 phi cơ kể trên là loại “Guardian 400”, đây là model mới nhất, vừa được hãng Viking Air đưa ra thị trường giữa năm 2009. Theo Viking, máy bay loại “Guardian 400” là máy bay hiệu quả nhất cho hoạt động tuần tra, bảo vệ an ninh trên biển cũng như thực hiện các hoạt động tìm kiếm và cứu hộ trong thế kỷ này.
Sáu chiếc phi cơ trên, dự kiến sẽ được giao cho Việt Nam trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2014 và Công ty Pacific Sky Aviation, thuộc Tập đoàn Viking Air, sẽ chịu trách nhiệm đào tạo kỹ thuật và huấn luyện bay cho phi công Việt Nam.
Và tên lửa đạn đạo của Israel
Một hoạt động mới nhất liên quan đến việc mua sắm vũ khí của Việt Nam là đầu tuần qua, Việt Nam đàm phán với Israel để mua một hệ thống tên lửa đạn đạo tầm ngắn (SRBM) của nước này.
Loại tên lửa này đã từng được Israel giới thiệu hồi năm 2005, trong một cuộc triển lãm vũ khí phòng không tại Paris. Tên lửa này có mang một đầu đạn nặng khoảng 125 kg, tầm bắn khoảng 150 km và được cho là khá chính xác. Tên lửa này có thể đặt trên mặt đất hoặc di chuyển bằng xe vận tải, được sử dụng để chống tàu chiến và được xem như một phương thức hữu hiệu trong việc tăng cường hỏa lực cho lực lượng phòng vệ của hải quân.
Báo Straits Times cho biết, Việt Nam mua loại tên lửa này nhằm hiện đại hóa quân sự và tăng cường khả năng phòng thủ, để bảo vệ chủ quyền ở quần đảo Trường Sa.
Ngoài các thỏa thuận mua vũ khí nói trên, Việt Nam còn muốn mua máy bay quốc phòng của Pháp. Giữa tháng 12 năm ngoái, trong chuyến viếng thăm ba ngày, tướng Phùng Quang Thanh, Bộ Trưởng Quốc phòng Việt Nam đã yêu cầu Pháp cung cấp cho Việt Nam “trực thăng và máy bay vận tải”.
Trước khi tới Pháp, Tướng Phùng Quang Thanh cũng đã ghé thăm Hoa Kỳ và cho biết, Việt Nam muốn Hoa Kỳ giảm bớt các hạn chế về việc bán các mặt hàng quân sự cho Việt Nam. Các quan chức cao cấp quốc phòng Hoa Kỳ nói rằng, Mỹ sẽ cân nhắc việc bán vũ khí phi hủy diệt cho Việt Nam, khi quan hệ an ninh song phương giữa hai nước phát triển tốt hơn.
Việt Nam sắm thêm vũ khí, Biển Đông sẽ ra sao?
Ngọc Trân
Báo chí nước ngoài nói gì?
Liên quan tới việc mua sắm vũ khí của Việt Nam, báo Bangkok Post của Thái Lan, số ra ngày 21 tháng 12 năm ngoái, có tựa đề “Hãy cân nhắc việc gia tăng vũ trang này” (Rethink This Arms Buildup). Bài báo cho rằng, việc mua sắm vũ khí của Việt Nam sẽ không có lợi cho các nước trong vùng vì có khả năng “gia tăng căng thẳng trong khu vực và tái khởi động một cuộc chạy đua vũ trang hơn là thúc đẩy hòa bình”.
Bài báo nhấn mạnh, Việt Nam bỏ ra hàng tỷ đô la mua tàu ngầm loại kilo và chiến đấu cơ Su-30, là điều làm cho các nước trong khu vực lo ngại, vì chiến đấu cơ mà Việt Nam mua là quá hiện đại so với không lực của các nước khác trong khu vực, và việc mua tàu ngầm “mang lại cho Việt Nam loại vũ khí mà các đối tác của Hà Nội trong khối Asean không hề có”.
Bài báo đưa ra khuyến cáo cho lãnh đạo ASEAN, nên thảo luận trực tiếp với Việt Nam về việc gia tăng vũ trang này, và rằng “không có lý do gì để Việt Nam bắt đầu một chương trình tái vũ trang“. Việt Nam cần nghĩ lại kế hoạch “tái khởi động cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực Đông Nam Á. Nếu không, Việt Nam cần công khai toàn bộ các chi tiết của các hợp đồng mua vũ khí và giải thích rõ lý do“.
Đầu năm nay, báo Straits Times của Singapore cũng có bài viết liên quan đến việc mua vũ khí của Việt Nam. Bài báo cho rằng, Việt Nam mua sắm vũ khí ồ ạt trong thời gian qua là quá nhiều và quá sớm, do Việt Nam bị hạn chế trong việc phối hợp các loại vũ khí trong không gian hai, ba chiều. Điều quan trọng mà Việt Nam cần làm là học cách phối hợp các loại vũ khí hoạt động với nhau, cũng như học cách duy trì và bảo dưỡng để các loại vũ khí này phát huy hết khả năng chiến đấu.
Ý kiến của chuyên gia quốc phòng
Liên quan tới việc mua vũ khí và hiện đại hóa quân sự, trả lời phỏng vấn Đài Á châu tự do, GS Carl Thayer, chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam, thuộc Học viện Quốc phòng Úc, cho biết: “Thứ nhất là chi phí, tiếp đến là sự cân bằng. Bằng cách mua trực thăng của Pháp mà vẫn còn các máy bay từ thời Xô Viết, hay cố gắng lấy các phụ tùng thay thế cho các máy bay Mỹ mà Việt nam có được từ thời chiến tranh, có thể tạo nên một rắc rối khủng khiếp về hậu cần cho quân đội Việt Nam. Việt nam không thể trộn lẫn mọi thứ với nhau bằng cách mua mỗi nơi một ít vì nó sẽ tạo nên khó khăn lâu dài.
Việc bảo vệ chủ quyền biển tất nhiên là ưu tiên hàng đầu, rồi bảo vệ biên giới. Thế nhưng trong tất cả những rủi ro thì Việt Nam phải tính đến, trong khi lên kế hoạch đưa vào một thế hệ thiết bị mới cho một thập kỷ tới hoặc lâu hơn nữa, thì đâu là những rủi ro chính trong một khoảng thời gian nhất định. Đó là một điều khó khăn cho người lên kế hoạch. Việt Nam phải cân nhắc việc các vũ khí có phù hợp với nhau không, rồi kể cả khi có vũ khí rồi thì làm thế nào để phối hợp nó trong cả một tổng thể để giúp quân đội hoạt động hiệu quả”.
Khi được hỏi đến những rủi ro và thách thức đi kèm, liên quan đến việc mua sắm vũ khí của Việt Nam, GS Carlyle Thayer nói: “Rủi ro đầu tiên là vấn đề chi phí. Sách trắng của Việt nam vừa công bố với các số liệu quốc phòng cho thấy không cách nào mà có thể dùng toàn bộ ngân sách năm ngoái để mua 6 tàu ngầm. Mà 6 tàu ngầm này chưa bao gồm cả việc huấn luyện, trang bị hạ tầng. Vì vậy tăng trưởng kinh tế của Việt nam cần phải rất cao để có tiền chi tiêu quốc phòng. Đây là một trò mèo vờn chuột.
Rủi ro thứ hai nữa là vấn đề vũ khí không tương thích với nhau. Họ mua tàu ngầm ở đây, nhưng họ không biết làm thế nào để phối hợp nó với các vũ khí khác và như thế thì tốn kém. Rồi còn vấn đề về chỉ huy điều khiển. Trong tình huống có xung đột, liệu Việt Nam có thể bảo đảm tất cả các lực lượng quân đội được sử dụng một cách hợp lý, và tránh việc người điều khiển sử dụng vũ khí vào kẻ thù hoặc ví dụ là Trung Quốc hay bất cứ nước nào khác, khi họ cảm thấy bị nguy hiểm, thay vì tuân theo lệnh một cách nghiêm ngặt. Vì thế chi phí, rồi việc phối hợp các vũ khí với nhau và có được sự chỉ huy điều khiển đúng, đều là những vấn đề mà Việt Nam phải đối mặt khi hiện đại hóa quân đội”.
Biển Đông vẫn… dậy sóng
Ngay sau khi các tin tức đầu tiên về mua sắm vũ khí đưa ra, dư luận trong và ngoài nước rất phấn khởi, cho rằng Việt Nam mua tàu ngầm và chiến đấu cơ để đối phó với mối đe dọa đến từ Trung Quốc. Thế nhưng, quan sát tình hình trên Biển Đông, vẫn không thấy có gì là sáng sủa.
Từ đó đến nay, Trung Quốc vẫn thường xuyên tập trận trong khu vực, ngang nhiên đưa các tàu Ngư chính đến tuần tra trên vùng biển Việt Nam, bất chấp những lời phản đối.
Không những thế, ngư dân Việt Nam liên tục bị bắt bớ, đánh đập và hành hạ, trong khi đánh cá trên vùng biển nước ta mà Trung Quốc tự cho là cái ao nhà của họ. Các hành động này của Trung Quốc đi ngược lại cách ứng xử văn minh của một nước lớn, mà mới đây, đài Tiếng nói nhân dân thành phố đã so sánh hành động của “một bộ phận quan chức Trung Quốc khi bắt giữ tàu và đòi tiền chuộc” với hành động của “hải tặc Somali”.
Theo tin từ đài này, trong vòng một năm, từ đầu năm 2009 đến đầu năm nay, Trung Quốc đã bắt 36 tàu đánh cá với 473 ngư dân Việt Nam, tịch thu hết tàu thuyền, ngư cụ, hải sản của ngư dân, riêng ngư dân thì bị giữ lại để đòi tiền chuộc từ thân nhân của họ. Tin từ đài này cho biết, Trung Quốc đã “không từ thủ đoạn hèn mạt nào” kể cả việc “gắp lửa bỏ tay người” như, đem chất nổ xuống tàu đánh cá Việt Nam để quay phim, chụp ảnh, buộc ngư dân Việt Nam phải ký tên vào biên bản có mang theo vũ khí.
Thêm một hành động mới xảy ra trong khu vực, ngày 29 tháng 4, Trung Quốc đã ban hành lệnh cấm đánh bắt cá ở các vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông. Lệnh này cấm tất cả các ngư dân trong khu vực không được đánh bắt cá kể từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 1 tháng 8 năm nay.
Đây là lần thứ hai trong hai năm qua, Trung Quốc ban hành lệnh cấm bắt đánh cả trên lãnh hải Việt Nam. Theo ông Chu Tiến Vĩnh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản, thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam cho biết, từ năm 1995, Trung Quốc bắt đầu đưa ra lệnh cấm đánh bắt cá trên biển Đông trong khoảng thời gian nêu trên, với mục đích bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Thế nhưng, từ năm 2009, Trung Quốc bắt đầu mở rộng việc áp dụng lệnh cấm này ra cả những vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Một diễn biến mới nhất trên biển Đông, sáng ngày 8 tháng 5, hai tàu Hải quân Việt Nam, HQ 261 và HQ 263, đã tham gia diễn tập với hai tàu 754 và 756 thuộc Hạm đội Nam Hải của Hải quân Trung Quốc. Ngoài ra, bốn tàu kể trên đã cùng nhau tuần tra liên hợp trên một chặng đường dài hơn 280 hải lý từ cửa vịnh Bắc Bộ. Theo Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam cho biết: “Các chuyến tuần tra liên hợp giữa hải quân hai nước đã thể hiện tinh thần láng giềng hữu nghị, góp phần tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau”.
Như vậy, việc mua sắm vũ khí trong thời gian qua, mà nhiều người cho rằng để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, có thật sự như thế hay không? Vẫn chưa có câu trả lời chính xác.