(Phần 1)
Thạch Lam Trần dịch
5 năm trước đây, các cuộc biểu tình(1) càn quét chế độ chuyên quyền Ai Cập Hosni Mubarak(2). Hầu hết các nhà quan sát trong và ngoài nước tin rằng Ai Cập đang trên con đường dẫn đến dân chủ, thậm chí còn tuyên bố rằng dân chủ đã đến. Nhưng thực tế, cuộc bầu cử đưa Mohamed Morsi lên nắm quyền Tổng thống với Đảng Tự do và Công lý (Anh em Hồi giáo) khiến nền chính trị Ai Cập đã sớm bị phân cực và chìm đắm trong bạo lực, lý do nằm ở tổ chức này đã không thương lượng, thoả hiệp và tôn trọng sự đa nguyên.
Năm 2013, trong một cuộc đảo chính quân sự, Tổng thống Abdel Fattah el-Sisi lên nắm quyền(3). Kể từ đó, chế độ Sisi đã giết chết hơn 1.000 dân thường, giam giữ hàng chục ngàn người đối lập, và bịt miệng phương tiện truyền thông, đàn áp xã hội dân sự.
Tunisia ở tình trạng tốt hơn(4). Làn sóng của cuộc nổi dậy Ả Rập bắt đầu vào năm 2010, và chính thể dân chủ cách mạng Tunisia đã có cơ hội sống sót. Việc chuyển đổi cơ bản thành công khi hiến pháp mới được công nhận, và giải Nobel hoà bình 2015 trao cho “bộ tứ Tunisia” (Bộ Tứ Đối thoại Quốc gia Tunisia) gồm bốn tổ chức chính trong xã hội dân sự Tunisia bởi sự “tích cực” trong quá trình chuyển đổi Tunisia. Nhưng dân chủ ở đây vẫn còn mong manh, bị đe dọa bởi chính trị bạo lực, cuộc đàn áp bất đồng chính kiến, và vi phạm nhân quyền.
Ở Cuba, cũng tạo ra một hy vọng về một tương lai dân chủ, khi những nhà lãnh đạo già cỗi bắt đầu mở ra ý tưởng cải cách. Và Myanmar (hay còn gọi là Miến Điện), một quá trình chuyển đổi chậm và không đồng đều từ chế độ quân sự độc tài vẫn còn đó những khó khăn.
Câu hỏi đặt ra là: Điều gì quyết định chuyển tiếp dân chủ sẽ thành công?
Chúng tôi đã tiến hành cuộc phỏng vấn mở rộng với 12 cựu tổng thống và một cựu thủ tướng – những người đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi dân chủ thành công của Brazil, Chile, Ghana, Indonesia, Mexico, Philippines, Ba Lan, Nam Phi, và Tây Ban Nha.
Frederik Willem de Klerk, từng làm Tổng thống Nam Phi, đã cùng với Nelson Mandela đàm phán với Đại Hội Dân tộc Phi (ANC) nhằm chấm dứt sự phân biệt chủng tộc.
BJ Habibie, Phó Tổng thống thời kỳ Suharto (nhà độc tài lâu của Indonesia), đã trở thành Tổng thống sau sự kiện từ chức của Suharto(5) khi nhà độc tài này đối mặt với các cuộc biểu tình lớn. Habibie sau đó giải phóng tù nhân chính trị, mở cửa cho sự ra đời công đoàn, kết thúc kiểm duyệt báo chí, cho phép sự hình thành của các đảng chính trị mới, và chuyển đổi các quy tắc chính trị của Indonesia – mở đường cho nền dân chủ lập hiến.
Một số nhà lãnh đạo khác nổi bật trong phong trào chống đối chế độ độc tài, sau đó xây dựng nền dân chủ ổn định. Patricio Aylwin, một nhà lãnh đạo của phe đối lập trong thời kỳ cầm quyền của Tướng Augusto Pinochet (Chile), ông đã trở thành Tổng thống sau đó, và tiến hành các bước khôi phục nền dân chủ vào năm 1990.
Tadeusz Mazowiecki, một người Công giáo tài năng và một nhà lãnh đạo công đoàn Đoàn kết, ông đã trở thành Thủ tướng đầu tiên của Ba Lan – hậu cộng sản.
Chúng tôi cũng phỏng vấn những người đã nằm trong nội các của chế độ độc tài và sau đó là dân chủ như Aleksander Kwasniewski, một Bộ trưởng trong Chính phủ cộng sản Ba Lan – người tham gia vào các cuộc thảo luận bàn tròn – thúc đẩy mở cửa Ba Lan(6). Sau đó, khi nắm cương vị Tổng thống, ông đã xây dựng thể chế dân chủ của Ba Lan.
Fidel Ramos, một sĩ quan cấp cao dưới chế độ độc tài Ferdinand Marcos (Philippines), đã gia nhập phe đối lập trong các cuộc biểu tình vào năm 1986. Sau đó, ông nắm giữ chức Bộ trưởng quốc phòng và là Tổng thống thứ hai của nền dân chủ Manila – sau Marcos.
Mặc dù các lực lượng xã hội, dân sự và chính trị rộng lớn đóng vai trò quan trọng, các nhà lãnh đạo là yếu tố then chốt cho quá trình chuyển đổi thành công của một đất nước. Họ không những giúp xóa bỏ chế độ độc tài, xây dựng hiến pháp dân chủ, thể chế hóa các cuộc bầu cử theo hướng công bằng, kết hợp với những hạn chế có ý nghĩa về quyền hành và quyền chính trị thực tế để không có những biến đổi đảo ngược.
Chế độ dân chủ vẫn còn là một công việc được tiến hành ở một số nước, nhưng quá trình chuyển đổi cơ bản đã thay đổi sự phân chia quyền lực và chính trị thực tế.
Tất nhiên, không có một hình mẫu nào cho sự thay đổi dân chủ. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi đã để lại một số bài học đắt giá. Cải cách hay chuyển đổi dân chủ phải được tiến hành trên cơ sở các liên minh được thiết lập, đưa quân đội nằm dưới sự kiểm soát dân sự…
Chuẩn bị về sự thống nhất
Một quá trình chuyển đổi dân chủ thành công bắt đầu trước thời điểm bầu chọn nội các (bầu cử). Phe đối lập đầu tiên cần phải đạt được đủ sự ủng hộ công khai – thách thức khả năng của chế độ cai trị hiện tại và tạo cho mình một vị trí ứng cử chính đáng về mặt quyền lực.
Lãnh đạo phe đối lập phải huy động kháng nghị; tố cáo về việc bỏ tù, tra tấn, và trục xuất bất đồng chính kiến; và làm xói mòn tính hợp pháp của chế độ. Điều này thường đòi hỏi các phe đối lập cần đặt mục tiêu chung lên trên những bất đồng sâu sắc như về lãnh đạo, chiến lược, và chiến thuật hoạt động. Hầu hết các nhà lãnh đạo quá trình chuyển đổi mà chúng tôi phỏng vấn để nỗ lực làm việc để xây dựng các liên minh rộng lớn, và có tính thống nhất về mặt chính trị, các phong trào xã hội, công nhân, sinh viên, các tổ chức tôn giáo….
Ở Ba Lan, công đoàn Đoàn kết làm việc chặt chẽ với tổ chức sinh viên, trí thức, và Giáo Hội Công Giáo.
Tây Ban Nha, các nhóm đối lập giải quyết nhiều khác biệt của họ trong các cuộc đàm phán dẫn đến hiệp ước Moncloa năm 1977, thời điểm họ đã đồng ý về cách điều hành nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi.
Ngược lại, bất cứ nơi nào mà phe đối lập không đoàn kết, triển vọng cho nền dân chủ sẽ bị đình trệ. Ukraine, với cuộc Cách mạng Cam vào tháng 5/2004(7) đã có một kết quả bầu cử được coi là gian lận. Sự chia rẽ của những nhà cải cách sau đó trong tổ chức – phát triển dân chủ và các quy định của pháp luật, đã đưa nước này rơi vào một thập kỷ thiểu số chánh trị và tham nhũng chính trị.
Phong trào đối lập dân chủ cũng cần phải xây dựng cầu nối với những người đã hợp tác trong quá khứ với chế độ, những người sẵn sàng hỗ trợ dân chủ hóa. Chú trọng đến những người từ chối từ bỏ bạo lực hoặc những người nhấn mạnh vào nhu cầu không khoan nhượng đối với quyền tự chủ khu vực, dân tộc hay sắc tộc.
Nhưng đoàn kết phe đối lập là không đủ; lực lượng dân chủ cũng phải hiểu và khai thác
chia rẽ trong chế độ đương thời. Để thuyết phục các thành phần trong chế độ phải mở cửa hoặc thay đổi (cải cách), cần đảm bảo một cách đáng tin cậy rằng, họ sẽ không tìm cách trả thù hoặc tịch thu tài sản của người lãnh đạo trong chế độ đó. Cần phải đối thoại liên tục với những người trong chế độ độc đoán – những người đang mong muốn một cuộc rút lui chiến lược, trong khi cô lập những người cứng đầu.
Ví dụ, các nhà cải cách Brazil Fernando Henrique(8) đã đưa ra một chiến lược cốt lõi là để tạo ra các yếu tố để lãnh đạo quân đội tìm ra một lối thoát, và cho thấy sự cần thiết phải quay lưng lại với chế độ độc tài, ngược lại, phải tìm cách để duy trì sự ủng hộ của nhóm cử tri cốt lõi trong khi đàm phán với nhóm đối lập.
Với Frederik Willem de Klerk, ôngđã xây dựng một sự đồng thuận bí mật trong nội các của ông cho đến khi thông báo hợp thức hóa ANC, giải phóng Mandela và các tù nhân chính trị khác, và chính thức mở cửa đàm phán.
Tiếp xúc trực tiếp giữa phe đối lập và chế độ lúc đầu có thể diễn ra trong bí mật, nếu cần thiết, thì sẽ như trường hợp tiếp xúc ban đầu giữa các quan chức chính phủ và đại diện ANC, và được tổ chức bên ngoài Nam Phi vào giữa những năm 1980.
Đối thoại không chính thức, chẳng hạn như vòng Thảo luận bàn tròn ở Ba Lan, có thể giúp các thành viên của chế độ và dân chủ đối lập hiểu nhau, vượt qua những định kiến, và xây dựng mối quan hệ tương quan. Như Frederik Willem de Klerk cho biết, “Bạn không thể giải quyết một cuộc xung đột mà các bên tham gia không nói chuyện với nhau… Để thành công với cuộc đàm phán, bạn cần phải đặt mình vào vị trí của bên kia. Phải suy nghĩ thông qua trường hợp của họ và xác định… yêu cầu tối thiểu trong để đảm bảo hợp tác, tham gia xây dựng của bên kia trong quá trình đàm phán”.
Trong suốt quá trình này, các nhà cải cách phải liên tục gây áp lực lên chế độ và chấp nhận rủi ro để đạt được tiến bộ liên tục. Phải dự liệu để thực hiện thỏa hiệp, ngay cả khi những mục tiêu quan trọng chỉ đạt được một phần. Hiểu theo nguyên lý tối giản, thì cần phải kêu gọi sự can đảm chính trị hơn để gỡ bỏ các nguyên tắc hấp dẫn nhưng không thực tế, lý do nằm ở sự chuyển đổi không phải là một nhiệm vụ của các giáo điều.
Tại Ghana, ví dụ, John Kufuor, nhà lãnh đạo của Đảng Yêu nước mới, từ chối cho nhóm của mình tẩy chay cuộc bầu cử năm 1992, cho rằng các bên nên tham gia vào bầu cử năm 1996, thậm chí mặc dù Đảng này có thể bị thất thế. Chiến thắng tiếp của Kufuor trong cuộc bầu cử năm 2000 đã dẫn đến một chuyển giao quyền lực hòa bình, mô hình chuyển giao qua thùng phiếu này đã tiếp tục trong 15 năm tiếp theo.
Ở Mexico, Ernesto Zedillo, mặc dù một thành viên nổi bật đảng cầm quyền – đảng Cách mạng thể chế (PRI), đã nỗ lực hỗ trợ cải cách thủ tục bầu cử trong trong khi việc đàm phán với các phe đối lập khó có thể xảy ra(9). Sau đó, cùng với Tổng thống, ông đã đồng ý với những thay đổi hơn nữa về tài chính và chiến dịch hỗ trợ cải cách để củng cố các cơ quan bầu cử, và vào năm 2000, việc chuyển giao quyền lực chưa từng từ PRI sang phe đối lập đã diễn ra.
Sự nguy hiểm trong từ chối thỏa hiệp là rõ ràng trong trường hợp của Ai Cập.
Trong triều đại ngắn ngủi của tổ chức Anh em Hồi giáo, nhóm này đã lạm quyền qua sự gia cố quyền lực, không chấp thuận sự đa nguyên về chính trị, thậm chí còn soạn thảo ra Hiến pháp dựa trên nguyên tắc luật Hồi giáo, và điều này đã dẫn đến phản ứng của số đông người dân.
Còn tại Chile, các thành viên cánh tả cực đoan của phe đối lập tán thành “tất cả các hình thức đấu tranh”, kể cả bạo lực, chống lại chế độ Pinochet. Đến năm 1986, phần lớn phong trào đối lập hiểu rằng họ không thể lật đổ chế độ độc tài bằng vũ lực và sự liên kết với những nhóm cực tả đối lập khác. Ngay lập tức, họ quay lại với sự ôn hòa và cam kết xây dựng một “quốc gia cho tất cả” các phe phái. Cách tiếp cận này nhanh chóng giúp phe đối lập chiến thắng trước Augusto Pinochet trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1988, một cuộc bầu cử mà nhiều người trong phe đối lập ban đầu đã muốn tẩy chay.
T.L.T.
F. Lowenthal là một thành viên cao cấp tại Viện Brookings và người sáng lập của Đối thoại Liên Mỹ.
Sergio Bitar là Chủ tịch Quỹ Dân chủ Chile và là Uỷ viên cao cấp của tổ chức Đối thoại liên Mỹ. Ông cũng là một thượng nghị sĩ Chile từ năm 1994 đến năm 2002.
Cả hai là tác giả của bài luận Chuyển đổi đảng Dân chủ: Cuộc trò chuyện với lãnh đạo thế giới (Johns Hopkins University Press và IDEA International, 2015).
Nguồn: http://www.ijavn.org/2015/12/vntb-bai-hoc-chuyen-oi-dan-chu-thanh.html