Lũ vạn tuế!

Không hề cường điệu, “cư dân Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) khó sống nếu thiếu

nước lũ”. Hàng năm, khi trời sa mưa, họ trông lũ về như người khát giữa hoang mạc chờ

nước uống.

 

                                            Ảnh minh họa – trông lũ về

 

Ở ĐBSCL, cư dân phân biệt rạch ròi lụt và lũ.  Lụt  là  nước  mặn  từ biển dâng lên,  lũ  là  nước

Ngọt (nước mưa) từ trên cao đổ về. Lụt rất có hại, còn lũ chỉ có lợi.

 

Đoạn quốc lộ 1A từ Sài Gòn đến Cà Mau chạy xuyên qua tâm vùng đất ĐBSCL. Phía bắc lộ  có

hai  cánh đồng lớn là Đồng Tháp Mười và Đồng Tứ Giác Long xuyên, luôn nhiễm phèn, vào mùa

nắng. Phía nam lộ, chủ yếu là vườn cây ăn trái, cũng luôn nhiễm mặn vào mùa nắng, do nước

biển  tràn  vào 9 nhánh của hai con Sông Tiền và Sông Hậu (gọi là Cửu Long).

 

Vùng đất ĐBSCL luôn nhiễm hai thứ độc hại là phèn và mặn. Vậy cớ sao gọi nó là vùng  đất trù

phú? Đó là nhờ những trận lũ tràn về vào mỗi mùa mưa có tác dụng thanh trừ phèn, mặn.

Chỉ cần những cơn mưa lớn đầu mùa trên thượng nguồn, lũ sẽ theo hai con  Sông Tiền và Sông

Hậu (2 nhánh của sông Mékong) xuôi dòng về miền hạ, bắt đầu rửa mặn. Khi mùa  mưa

vào thời cao điểm, lũ lớn nhanh như Phù Đổng, cường suất mạnh, đủ sức xua đuổi mặn  lùi  dần

ra biển.

 

Khi lũ lên cao, Sông Tiền và Hậu không tải nổi, nước tràn đồng. Lúc này  nó tác dụng thau chua,

rửa mặn cho ruộng vườn, đem theo những thứ độc hại ra biển, trả lại sự trong lành cho đất.

 

Lũ đồng thời cũng mang phù sa từ thượng nguồn cung cấp nguồn dinh dưỡng quý giá cho các

Giống cây trồng. Nó còn bồi lấp những chỗ trũng, tạo mặt bằng cho những cánh đồng vốn lồi lõm.

 

Sau mỗi mùa nắng, ĐBSCL kiệt quệ thủy sản nước ngọt. Lũ về, cá tôm vùng thượng nguồn,

nhất là từ Biển Hồ (Campuchia) cũng theo về. Lũ càng lớn cá tôm càng nhiều, rất có lợi cho

người dân sống bằng nghề đánh bắt hoặc nuôi cá.

 

Người ta có thể đắp đê ngăn lụt chớ không thể đắp đê ngăn lũ. Nước từ trên cao đổ xưống,  đắp đê

ngăn lũ là  trái quy luật, là hành động tự sát, bởi câu tục ngữ “ tức nước vỡ bờ”. Cho nên đồng bào

ĐBSCL từ xa xưa đã quen và biết “sống chung với lũ” sao cho có lợi nhất.

 

Ra khỏi chiến tranh, nước nhà thống nhất, những cán bộ miền Bắc được điều vào công tác vùng

ĐBSCL xem  lũ  ở  đây  như là một thảm họa, không có thói quen “chung sống với lũ” mà là

“chống lũ”. Họ ra lệnh  lập  những  khu dân cư tránh lũ, đắp đê ngăn lũ khắp mọi nơi ở Đồng Tháp

Mười. Hậu quả là, khu tránh lũ như những  “Ấp Chiến lược” thời Việt Nam Cộng hòa, không

ai chịu vào. Trong đó nhiều vùng thiếu nước ngọt, nhiễm phèn,  sâu rầy…, gây  thiệt hại

nặng nề cho mùa màng. Do đắp đê bao ngăn dòng chảy, nước lũ buộc phải đổ xuống Sông Tiền,

Sông Hậu, cường suất mạnh, gây sạt lở thị xã Sa Đéc bên bờ sông Tiền và cầu bắc Vàm Cống

bên Sông Hậu.

 

Thật may, khi ông Võ văn Kiệt làm Thủ tướng, ông không đắp đê mà  cho  đào  nhiều  con  kinh

thoát  nước ra Biển Tây, cải tạo cánh đồng Tứ Giác Long Xuyên. Ở Đồng Tháp Mười, những

việc xây, đắp  trái quy luật  tự nhiên bị hủy dần theo năm tháng, nay đã trả lại nguyên trạng,

người dân tiếp tục  “chung sống với lũ” theo cách có lợi nhất mà họ từng trải nghiệm.

 

Điều cư dân ĐBSCL lo ngại nhất hiện nay là sợ các nước ở thượng nguồn sông Mékong xây

đập thủy điện. Các con đập này có chức năng giữ nước, ngăn lũ, đồng thời cũng giảm thiểu

lượng phù sa đổ về, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất cây trồng.  Lũ không về nước mặn sẽ

xâm nhập ngày càng sâu vào nội địa.

 

Cư dân ĐBSCL khó sống nếu không có lũ. Thiếu lũ, ĐBSCL sẽ không còn là vựa lúa của cả

nước.

 

28/8/2015

   T.T.

 

Tác giả gửi BVN

 

This entry was posted in Tản Mạn. Bookmark the permalink.