Phan Văn Song dịch
Hoàng Việt hiệu đính
Chương 2 (tiếp theo)
Bản đồ và đường vẽ: từ 1500 đến 1948
Các công ty giao thương Châu Âu đã mạo hiểm đến Đông Á với tư cách vừa là thương nhân vừa là lính đánh thuê, sẵn sàng đánh nhau vì quyền được kiếm lãi. Họ đã được chính phủ của họ cấp phép, nhưng đã hành động vì lợi ích riêng của họ. Vào thế kỷ XIX hai công ty thành công nhất – của Anh và của Hà Lan – tự họ đã biến thành chính phủ. Các nhu cầu lập liên minh, đè bẹp các đối thủ, đánh thuế hải quan và chống buôn lậu buộc họ phải nắm lấy lãnh thổ và cai trị dân chúng theo cách tệ hại và thất thường nhất. Khi chính phủ ở chính quốc cố kiểm soát những lạm dụng này và chấn chỉnh các vấn đề tài chính của công ty thì lợi ích của doanh nghiệp và nhà nước đã trở nên hoàn toàn gắn bó với nhau. VOC tự phá sản vào năm 1800 và lãnh thổ của họ đã được nhà nước Hà Lan tiếp quản. EIC đã nhiều lần gặp rắc rối nhưng vẫn sống sót được nhờ lợi nhuận từ việc buôn bán thuốc phiện – trà. Các quan chức nhà Thanh đã yêu cầu chi trả bằng bạc nhưng giá bạc đã tăng vọt do các cuộc chiến giành độc lập nổ ra ở Châu Mỹ Latin. Nếu không có thuốc phiện thì tiền mặt của Anh sẽ chảy ra nước ngoài để chi trả cho trà và các thứ nhập khẩu khác từ Trung Quốc. Khi cố gắng ngăn chặn việc giao thương của EIC, nhà Thanh ngầm đe dọa nền kinh tế Anh với một cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán. Phản ứng kết hợp của EIC và chính phủ Anh là cố cưỡng bức mở cửa thị trường của Trung Quốc không những cho thuốc phiện mà còn cho tất cả các sản phẩm – và khôi phục lại sự cân bằng thương mại. ‘Chiến tranh nha phiến’ năm 1840 và 1860 đã làm đúng điều đó. Pháo hạm của EIC và Hải quân Hoàng gia, chu cấp từ thuốc phiện, đã áp đảo đối thủ nhà Thanh. Trong khi các tàu này phong tỏa bờ biển, chỉ huy quân đội Anh đã buộc hoàng đế nhà Thanh phải nhượng lại Hong Kong và mở cửa 5 cảng khác cho giao thương quốc tế. Hiệp ước Nam Kinh là hiệp ước đầu tiên trong số 26 ‘hiệp ước bất bình đẳng’ tương tự mà nhà Thanh bị buộc phải ký với 10 quốc gia trong 60 năm sau đó.
Chiến tranh nha phiến là đợt làm ăn phát đạt cuối cùng của EIC. Vào khoảng năm 1874, phá sản và việc gia tăng mức ghê tởm với hành vi của công ty này đã dẫn đến việc nó bị buộc quốc hữu hoá. Nhưng điều đó đã không làm kết thúc sự nhầm lẫn về động cơ thương mại và thuộc địa của Anh ở Đông Nam Á. Năm 1842, nhà thám hiểm James Brooke đã trở thành Rajah (vua) của Sarawak và năm 1882 Công ty Chartered Bắc Borneo đã tiếp thu khu vực mà bây giờ là Sabah. Hai khu vực này được xác định như là lãnh thổ của ‘Anh’ nhưng chỉ dần dần về sau mới được chính thức sáp nhập vào Đế quốc Anh.
Trái lại, các dự án của đế quốc Pháp và Đức là các hoạt động do nhà nước chủ trương ngay từ đầu. Lấy cớ về việc các nhà truyền giáo Công giáo bị ngược đãi, Hải quân Pháp đã nã pháo vào thành phố Đà Nẵng ở miền Trung Việt Nam năm 1858. Năm sau quân Pháp chiếm lấy Sài Gòn và trong vòng một thập kỷ ‘Nam Kỳ’ biến thành thuộc địa. Campuchia và An Nam cũng trở thành xứ bảo hộ của Pháp ngay sau đó nhưng cái mà người Pháp thực sự theo đuổi là một tuyến đường sông, đường sắt độc lập đến các thị trường tiềm năng rất lớn của nội địa Trung Quốc. Muốn thành công đòi hỏi phải kiểm soát các tỉnh phía Bắc của Bắc Kỳ – một viễn cảnh làm triều đình Bắc Kinh quan ngại sâu sắc. Chính phủ Trung Quốc bảo trợ quân Cờ Đen (những kẻ là thổ phỉ hay một đơn vị chính trị bán tự trị tùy theo quan điểm mỗi người) để ngăn chặn họ lại. Nhưng sau khi chiến tranh xảy ra (1884-1885) Trung Quốc buộc phải thừa nhận việc người Pháp kiểm soát Bắc Bộ và đồng ý về một đường biên giới xác định giữa Bắc Bộ và vương quốc nhà Thanh.
Cùng khoảng thời gian này, Nhà nước Đức cũng đang tìm kiếm lãnh thổ ở Châu Á. Để chuẩn bị họ tìm cách thiết lập một chuỗi căn cứ hải quân kết nối chính quốc với một thuộc địa trong hi vọng ở Trung Quốc. Hải quân của họ đã tiến hành một loạt các cuộc khảo sát quanh quần đảo Hoàng Sa từ năm 1881 và năm 1884. Đức không tìm cách tiếp xúc cũng không nhận được sự cho phép của Trung Quốc hoặc Pháp cho các cuộc điều tra và chính phủ cả hai nước này dường như không nhận biết, dù chỉ đưa ra một phản kháng. (Một số tác giả khẳng định rằng Trung Quốc có đưa ra phản kháng nhưng dường như thiếu bằng chứng.) Nhà chức trách Đức thực tế công bố khảo sát của họ vào năm 1885 và nó đã trở thành tài liệu quy chiếu cho các bản đồ các quần đảo sau này của Anh và của Pháp, nhưng lạ lùng là không phải cho bản đồ của Trung Quốc.[1] Năm 1897, việc ngược đãi các nhà truyền giáo Châu Âu một lần nữa là cái cớ để cho đế quốc can thiệp. Trong vòng vài tháng Đức đã chiếm giữ khu vực mà sau này là Thanh Đảo (Qingdao) ở phía Đông Bắc Trung Quốc.
Dự án của đế quốc Mỹ ở Châu Á bắt đầu với màn trình diễn điển hình ngoại giao pháo hạm của tàu Commodore Perly tại bến cảng Tokyo vào năm 1853: đầy rẫy thuốc súng nhưng không có thương vong. Thay vì chống lại, như triều đình nhà Thanh đã làm, tầng lớp chủ chốt Nhật Bản chấp nhận hiện đại hóa, và trong vòng nửa thế kỷ đã dự phần vào cuộc chia cắt Trung Quốc. Thành công của Mỹ tại Nhật Bản dẫn đến những tham vọng lớn hơn. Năm 1890 giám đốc trường US Naval War College, Alfred Mahan, xuất bản cuốn The Influence of the Sea Power upon History, 1660-1783 (Ảnh hưởng của Cường quốc biển đối với lịch sử, 1660-1783) – phân tích sự thành công của nước Anh trong việc tạo ra một đế chế toàn cầu. Mahan cho rằng đối với Hoa Kỳ để phát triển thịnh vượng, cần phải đảm bảo các thị trường mới ở nước ngoài và bảo vệ các tuyến đường thương mại đến đó thông qua một mạng lưới các căn cứ hải quân. Lập luận của ông tạo được sự đồng cảm với một thế hệ mới các nhà chính trị. Tám năm sau cơ hội đến. Vào lúc kết thúc cuộc chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ, Hoa Kỳ đã thực sự trở thành một cường quốc Thái Bình Dương, sáp nhập Philippines, Hawaii và Guam.
Tất cả việc chiếm lấy lãnh thổ này của các cường quốc thực dân cung cấp nền tảng cho các ranh giới hiện nay ở Biển Đông. Họ đã tạo ra các quốc gia cùng với biên giới giữa chúng với nhau mà biên giới biển được tính từ đó. Philippines và Indonesia được tách ra theo thoả thuận giữa Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha năm 1529, ranh giới giữa Malaysia và Indonesia chủ yếu do người Anh và Hà Lan sắp xếp năm 1842; biên giới Trung -Việt do người Pháp thúc ép người Trung Quốc vào năm 1887, biên giới tổng thể của Philippines đã được Hoa Kỳ và Tây Ban Nha định đặt vào năm 1898 và biên giới giữa Philippines và Malaysia do Mỹ và Anh định vào năm 1930.
Đây là một phần của một quá trình xác định và cắm mốc biên giới giữa các quốc gia thuộc địa khác nhau, một quá trình tạo ra sự bất bình và phản kháng lớn. Người Hà Lan phải mất gần một thế kỷ để thực thi các việc đó ở Borneo và các đảo khác. Mãi cho đến những năm đầu thế kỷ XX, họ vẫn còn giải quyết 900 đơn vị chính trị bản địa khác nhau.[2] Nhưng đó là những biên giới mà các quốc gia hậu thuộc địa xuất hiện cùng với chúng và các biên giới này đã trở thành biểu tượng quốc gia thiêng liêng – bất chấp nỗi đau khổ mà chúng tiếp tục gây ra. Thậm chí bắt rễ sâu hơn bây giờ là cách nghĩ về các biên giới này. Hệ thống Westphalia đã trở nên chiếm ưu thế đến mức mà khái niệm về biên giới cố định và chủ quyền lãnh thổ thường được cho là đã tồn tại hàng thiên kỉ. Nhưng ở Đông Nam Á nó chỉ tồn tại hơn một thế kỷ đôi chút và việc mở rộng biên giới chính trị hiện đại từ những biên giới vốn đã có thể đã tồn tại trong hệ thống mandala có thể là vừa vô nghĩa vừa nguy hiểm.
Dĩ nhiên lý do chính cho sự nhạy cảm về chủ quyền và biên giới trong khu vực là những trải nghiệm của Trung Quốc trong giai đoạn mà các nhà tư tưởng của nó gọi là ‘thế kỷ quốc sỉ’. Ký ức về sự bất lực của chế độ nhà Thanh khi đối mặt với cuộc xâm lược của Châu Âu công nghiệp hoá vẫn thôi thúc lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc. Nhưng trái ngược với việc chiếm đóng thực tế ở những nơi khác trên thế giới, chủ nghĩa đế quốc phương Tây thế kỷ XIX ở Trung Quốc không thực sự nhắm tới lãnh thổ: diện tích đất đai bị chiếm giữ cho đến năm 1900 (Hồng Kông và các vùng tô nhượng quốc tế khác) chỉ chiếm một phần rất nhỏ lãnh thổ Trung Quốc. Cũng không phải đặc biệt về số người chết. Khoảng 20.000 người đã thiệt mạng trong ‘chiến tranh nha phiến’ năm 1840 và 1860 nhưng chắc chắn không nhiều hơn số người bị giết (20-30 triệu) trong ‘loạn Thái Bình thiên quốc’ vào giữa thế kỷ này. ‘Quốc sỉ’ là về mặt ý thức. Nó kết hợp cảm giác bị ‘kẻ khác’ xâm phạm cùng với nhận thức rằng chính tham nhũng nội bộ và thoái hoá đã cho phép điều đó xảy ra. Ngược lại, Nhật Bản đã thích nghi với hệ thống thế giới mới khá thành công và đã sẵn sàng thách thức trật tự đã thiết lập của Đông Á.
**********
Năm 1894 và 1895, như một dấu hiệu cho các phát triển sẽ tới, Trung Quốc nhà Thanh bị Nhật Bản giành lấy quyền kiểm soát Triều Tiên và Đài Loan. Cuộc xâm lược đa quốc gia đàn áp ‘phong trào Nghĩa Hoà Đoàn’ vào năm 1901 gần như tiếp theo sau việc thua trận với Nhật Bản. Triều đại nhà Thanh bị khủng hoảng và rất nhạy cảm với những lời cáo buộc không thể bảo vệ nổi lãnh thổ của đất nước. Các nhóm như ‘Quốc quyền quang phục hội’, ‘Quốc sỉ kỷ niệm hội’ và ‘Tự trị hội’ phát động tẩy chay hàng hóa của Anh, Mỹ, Nhật và các nước khác.[3] Chính vì vậy, vào năm 1909, lần đầu tiên chính phủ Trung Quốc đã quyết định chuyển chủ quyền các đảo ở Biển Đông thành một vấn đề về niềm tự hào dân tộc. Sau đó, cũng như bây giờ, vấn đề này là số phận của các chấm đất đá gần như không có người ở trên biển, rất xa đất liền. Việc thay đổi vị thế này cho ra việc vẽ đường [lưỡi bò] vốn trở thành cơ sở cho các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông.
Ngay từ tháng 10 năm 1907 có tin đồn về một nhóm nhà thám hiểm Nhật Bản đổ bộ lên đảo Pratas (TQ gọi là Đông Sa), một rạn san hô phủ phân chim cách Đài Loan (bị Nhật chiếm đóng) 400 km về phía Tây Nam và cách Trung Hoa đại lục khoảng 260 km.[4] Cho đến khi một tàu Trung Quốc đến viếng Pratas tháng 3 năm 1909 và phát hiện ra Nishizawa Yoshiji cùng khoảng một trăm đồng nghiệp đang đào bới phân chim thì tin đồn này mới được xác nhận. Khi bị chất vấn, Nishizawa tuyên bố rằng ông đã khám phá ra đảo này, rằng trước đây nó không có người ở và bây giờ nó thuộc về ông ta. Động cơ của ông đơn giản. Phân chim là một loại phân bón phong phú và có giá trị cho các cánh đồng lúa ở quê nhà và Nishizawa hi vọng kiếm được một món tiền to.
Khi tin này đến Quảng Châu, Hội Tự trị đã phát động một cuộc tẩy chay hàng hóa Nhật và yêu cầu chính phủ làm một điều gì đó. Các thành viên phẫn nộ tầng lớp trung của hội cũng thu thập bằng chứng để cố chứng minh rằng Pratas thuộc về Trung Quốc. Các nhà yêu nước ghế bành đọc lướt qua các sách cũ và phỏng vấn những người đi biển bằng chứng về mối quan hệ của đảo này với đất liền. Với áp lực người dân ngày càng tăng, Trung Quốc quyết định dùng tiền mặt để làm cho vấn đề này biến đi. Chính phủ Nhật Bản cũng sẵn sàng trợ giúp. Việc tẩy chay của Trung Quốc đã làm tổn hại nghiêm trọng nhiều công ty Nhật Bản và Nhật Bản có thể thấy rằng việc chiếm giữ Pratas không có giá trị nhiều[5]. Nhà chức trách ở Tokyo đề xuất công nhận chủ quyền của Trung Quốc nếu yêu sách đó có chứng minh thoả đáng.[6]
Ngày 12 tháng 10 1909 Tổng đốc Quảng Đông và lãnh sự Nhật Bản tại thành phố Quảng Châu đã đồng ý thỏa thuận này. Nhật Bản công nhận chủ quyền của Trung Quốc và Nishizawa sẽ rời khỏi đảo để đổi lấy 130.000 đồng tiền bạc đền bù.[7] Nhà chức trách Quảng Đông hy vọng sẽ thu lại món tiền bằng cách áp dụng kế hoạch kinh doanh của Nishizawa. Họ thậm chí đã thuê một vài chuyên gia khai thác phân chim của ông để tư vấn cho họ. Đáng buồn là mọi việc chẳng đem lại gì cả. Nếu không có một cầu cảng để cất dỡ hàng tàu lớn, toàn bộ dự án là không kinh tế. Đến Giáng Sinh năm 1910 dự án đã bị bỏ rơi và Pratas được báo là bỏ hoang một lần nữa.[8]
Tuy nhiên, mối lo ngại về biên giới biển của Trung Quốc vẫn dai dẳng và Tổng đốc Quảng Đông, Trương Nhân Tuấn, cảm thấy cầm một thanh gươm sẽ có nhiều hiệu quả hơn là một cây bút và hướng sự chú ý của mình tới Quần đảo Hoàng Sa, vài trăm cây số về phía Tây Nam. Tại thời điểm này, các bản đồ chính thức của Trung Quốc (dù cấp quốc gia, khu vực hay địa phương) đều cho thấy đảo Hải Nam là điểm cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc. Các bản đồ xuất bản năm 1760, 1784, 1866 và 1897 đều nằm trong trường hợp này.[9] Trong khi các cuộc đàm phán về Pratas diễn ra, Trương Nhân Tuấn phái một thuyền đến quần đảo Hoàng Sa tháng 5 năm 1909 – và hai tháng sau đó phái thêm hai thuyền nữa. Tài liệu Trung Quốc nói về một đội tàu mất ba tuần đi vòng quanh, làm các cuộc khảo sát và bắn súng đại bác để khẳng định chủ quyền quần đảo này cho Trung Quốc. Tuy nhiên, chủ một công ty vận chuyển người Pháp xuôi ngược các tuyến đường biển này, PA .Lapicque, đã đưa ra một phiên bản khác biệt trong một cuốn sách được xuất bản 20 năm sau đó.[10] Ông nói rằng chuyến đi (được hai người Đức của công ty kinh doanh lớn Carlowitz dẫn đường) bỏ ra hai tuần thả neo quanh đảo Hải Nam chờ thời tiết tốt và sau đó đi nhanh tới quần đảo Hoàng Sa vào ngày 6 tháng 6 rồi trở về Quảng Châu ngày hôm sau. Bây giờ chuyến đi này thành cơ sở cho yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền đối với quần đảo này. Hệ quả của chuyến đi là một bản đồ mới của Quảng Đông đã được xuất bản cho thấy lần đầu tiên trên bản đồ Trung Quốc, Quần đảo Hoàng Sa như là một phần của tỉnh này.[11]
Đó là một trong những hành vi cuối cùng dưới triều đại nhà Thanh đang giãy chết: cuối cùng nó bị lật đổ năm 1911. Bản đồ đầu tiên mà chính phủ cộng hòa mới xuất bản, năm 1912 trong Almanac (niên giám) của họ, không cho thấy có biên giới nào cả. Các nhà lãnh đạo quốc gia mới thề thốt là ‘hiện đại’ – họ khao khát trở thành một phần của hệ thống quốc tế nhưng như nhà địa lý William Callahan đã chỉ ra, họ không thể giải quyết mâu thuẫn giữa bản sắc mới của Trung Quốc với tư cách là một quốc gia và bản sắc cũ của nó như là trung tâm của một loạt các mối quan hệ thứ bậc dưa trên hệ madala. Hiến pháp đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc minh họa một cách hoàn hảo điều này khi khẳng định rằng ‘lãnh thổ (sovereign territory) của Trung Hoa Dân Quốc vẫn như cũ, là lãnh địa (domain) của đế quốc [Trung Hoa] trước đây’. Đẳng thức đơn giản về ‘lãnh địa’ cũ với ‘lãnh thổ’mới là nền tảng cho sự bất đồng hiện tại về ‘biên giới’ ở Biển Đông.[12]
Đây là tình hình khi mà nhà vẽ bản đồ tư nhân, Hồ Tấn Tiếp (胡晋接/Hu Jinjie), quyết định soạn ra một hướng dẫn mới về lãnh thổ lịch sử của Trung Quốc. Cuối cùng khi được công bố vào tháng 12 năm 1914, tập bản đồ địa lý mới của Trung Hoa Dân Quốc (中华民国地理新图 [THDQ địa lý tân đồ]) chứa bản đồ đầu tiên của Trung Quốc bao gồm một đường vẽ xuyên qua Biển Đông thể hiện đảo nào đúng lý thuộc về đại lục. Hồ Tấn Tiếp đặt tên bản đồ này là ‘Bản đồ lãnh thổ Trung Quốc trước thời Càn Long-Gia Khánh’.[13] Nói cách khác, đường đó thể hiện cho mức độ ‘kiểm soát’ của nhà nước Trung Quốc trước năm 1736 và đáng lưu ý, các đảo bên trong đường này chỉ có Pratas và quần đảo Hoàng Sa.[14] Đường đó không vượt quá vĩ tuyến 15° N về phía Nam. Suốt thời kỳ ‘lãnh chúa’ hỗn loạn vào thập niên 1920 và đầu thập niên 1930 đó là đường công bố trên bản đồ Trung Quốc. Phải mất 20 năm và một cuộc khủng hoảng quốc tế trên biển để đường đó chuyển tới vị trí mà Trung Quốc khẳng định hiện nay.
Ý thức xúc phạm quốc gia thậm chí còn tăng mạnh hơn vào ngày 9 tháng 5 năm 1915 khi chính phủ dân quốc buộc phải chấp nhận những yêu cầu mới của Nhật Bản đòi nhường lãnh thổ và các quyền khác.[15] Hội giáo viên quốc gia tuyên bố ngày 9 tháng 5 là “Kỷ niệm Quốc sỉ’. Năm 1916, Hiệp hội Bản đồ Trung ương ở Thượng Hải công bố một ‘Bản đồ quốc sỉ’ chỉ ra các vùng lãnh thổ bị mất vào tay người nước ngoài. Điều thú vị là, Hồng Kông, Đài Loan và Bắc Bộ đã được đánh dấu nổi bật nhưng không có bất cứ nơi nào khác ở Biển Đông được đề cập đến. Trong phần lớn thập niên sau,Trung Quốc bị thu hút vào cuộc nội chiến giữa các phe phái tranh quyền và lãnh chúa nhưng sau khi Quốc Dân Đảng lên nắm quyền vào năm 1927, họ đã sử dụng ‘quốc sỉ’ làm một ý tưởng thống nhất để đoàn kết đất nước. Họ thậm chí còn biến ‘ngày kỷ niệm quốc sỉ’ thành ngày lễ chính thức.
Ngày 13 tháng 4 năm 1930, tàu chiến Pháp Malicieuse thả neo ngoài khơi đảo Trường Sa, hàng trăm cây số phía Nam đảo Pratas và Quần đảo Hoàng Sa, và bắn 21 phát súng chào. Các nhân chứng duy nhất cho màn phô trương đế quốc này là bốn ngư dân áo chàm và đói khát mà không biết rằng họ đã chứng kiến loạt đạn chào mở màn trong một trận chiến vẫn chưa kết thúc để kiểm soát ngư trường của họ. Tàu Malicieuse đã được thống đốc Pháp tại Nam Kỳ phái đi sau khi có các báo cáo rằng chính phủ Nhật Bản sắp tóm lấy đảo này, cách bờ biển ông ở 500 km.[16] Chính phủ Pháp công bố việc chiếm đóng nhưng, kỳ lạ là không chính thức sáp nhập nó cho đến khi chính phủ Anh yêu cầu một bản sao của tài liệu sáp nhập ba năm sau đó. Chính phủ Trung Quốc không lưu ý tới cuộc chiếm đóng năm 1930 nhưng khi có công bố sáp nhập vào ngày 26 tháng 7 năm 1933, qua tuyên bố chủ quyền đảo Trường Sa và năm đảo khác – An Bang, Ba Bình, Song Tử (Les Deux Iles), Loại Ta và Thị Tứ – phản ứng của họ là dữ dội nhưng cũng khá lúng túng.
Vào ngày có thông báo, lãnh sự Trung Quốc tại Manila, ông Kwong, hỏi chính quyền thực dân Mỹ tại Philippines về bản đồ của quần đảo. Rõ ràng từ các bài báo đương thời do tờ báo có ảnh hưởng ở Thượng Hải là Thân Báo (申报/Shen Bao, trước đây là phiên âm là Shun Pao) tường thuật rằng chính phủ Trung Quốc đã không thể xác định được đảo nào đã bị sáp nhập hoặc chúng ở chỗ nào. Ngày 28 tháng 7, tờ báo cho biết Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã yêu cầu chính phủ phái một tàu đi điều tra những gì đang xảy ra. Hai ngày sau, phóng viên ở Paris của báo này thông báo bạn đọc rằng các đảo đó là các rạn san hô không có người ở và khác với quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên tranh cãi về vị trí quần đảo vẫn cuồng nhiệt trên tờ báo trong nhiều tuần. Dường như chính phủ Trung Quốc tin rằng người Pháp đã thay đổi tên của các đảo để làm tình hình rối ren. Họ đã phải quay sang xin ý kiến các chính phủ nước ngoài. Ngày 1 tháng 8, người Mỹ ở Manila đưa cho ông Kwong một bản đồ. Theo tường thuật ông ngạc nhiên khi biết rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thực tế là hai nơi khác nhau.[17] Cho đến ngày 15 tháng 8 bản đồ này mới tới tay chính phủ ở Nam Kinh. Chính phủ Trung Quốc vẫn tiếp tục lay động ngay cả khi các cuộc biểu tình tiếp diễn trên đường phố.
Trái lại, Nhật Bản lại trở thành nước đầu tiên phản đối động thái của Pháp vào ngày 21 tháng 8, lập luận rằng một công ty Nhật Bản, Rasa Industries, đã khai thác phân chim ở quần đảo này cho đến gần đây. Tuy nhiên, rốt cuộc thì họ cũng lầm lẫn: Rasa thật ra hoạt động trên đảo Hoàng Sa trong Quần đảo Hoàng Sa. Thân Báo tiếp tục loan tin về cáo tình trạng bất đồng giữa các cơ quan chính phủ trong nhiều tuần lễ. Mặc dù ngượng nghịu và phẫn nộ, chính phủ Trung Quốc chưa bao giờ thực sự chính thức phản đối động thái của Pháp.[18] Lý do có vẻ là ở giai đoạn này, chính phủ Trung Quốc coi Quần đảo Hoàng Sa chứ không phải là Quần đảo Trường Sa là lãnh thổ cực Nam của họ. Một báo cáo từng là bí mật gửi cho Hội đồng quân sự ngày 1 tháng 9 năm 1933, dường như xác nhận điều này:
Tất cả các nhà địa lý chuyên nghiệp của chúng ta đều nói rằng đảo Tri Tôn [trong quần đảo Hoàng Sa] là đảo cực Nam của lãnh thổ của chúng ta. Nhưng có lẽ chúng ta có thể tìm thấy một số bằng chứng cho thấy 9 đảo [trong quần đảo Trường Sa] là một phần của lãnh thổ của chúng ta trong quá khứ. Chúng ta cần phải hạ nhiệt trận đấu với Pháp, nhưng hãy để ngư dân của chúng ta tiếp tục hoạt động của họ để bảo vệ quyền đánh cá của chúng ta. Hải quân của chúng ta yếu và 9 đảo đó không hữu ích cho chúng ta bây giờ… Chúng ta chỉ phải chú tâm vào Quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], vì các luận điểm bằng chứng về chủ quyền của chúng ta đối với nó có rất nhiều mà cả thế giới chấp nhận, ngoại trừ Nhật Bản.[19]
Không có khả năng tác động bất kỳ đòn bẩy thực tế nào, chính phủ Trung Quốc đành quay lại với các nhà vẽ bản đồ của mình thế vào. Ngày 7 tháng 6 năm 1933, khi mà tin đồn về việc Pháp chiếm đóng Quần đảo Trường Sa bắt đầu lan truyền, họ thành lập Ủy ban thẩm tra bản đồ đất và biển (水陆地图审查委员会 [thủy lục địa đồ thẩm tra ủy viên hội]). Trong khi Ủy ban thảo luận, một nhà vẽ bản đồ khác, Trần Đạt (陳鐸/Chen Duo), công bố tập bản đồ Trung Quốc mới thực hiện của ông, trong đó biên giới biển của Trung Quốc kéo dài xuống 7° N – chắc chắn bao gồm những đảo ở Trường Sa mà Pháp vừa tuyên bố chủ quyền.[20] Điều này có thể đã ảnh hưởng đến ủy ban vì, sau một năm rưỡi nghiên cứu, cuối cùng họ cũng phản ứng lại hành động khiêu khích của Paris. Thay vì dùng 21 phát đại bác, ủy ban triển khai một danh sách. Tập đầu tiên của tạp chí công bố vào tháng 1 năm 1935, bao gồm tên tiếng Trung cho 132 đảo và đảo nhỏ trong Biển Đông mà ủy ban tin rằng đúng lý thuộc về Trung Quốc. Trong số này, 28 ở Quần đảo Hoàng Sa và 96 ở Trường Sa. Danh sách này không phải là một bộ sưu tập các tên truyền thống của Trung Quốc cho các thể địa lý mà là phiên âm hay dịch nghĩa các tên phương Tây in trên các hải đồ. Chẳng hạn, ở Quần đảo Trường Sa, North Danger trở thành Bắc Hiểm (北崄/Beixian), và Quần đảo Trường Sa đã trở thành Si-pu-la-te-li (斯普拉特利-phiên âm tiếng Trung của tên tiếng Anh Spratly [lưu ý ở đây âm ‘r’ được phiên âm thành âm ‘l’ như thường thấy, chẳng hạn như Roma thành Luómǎ (La Mã), Paris thành Bālý (Ba Lê)…- ND]) và ở Quần đảo Hoàng Sa, Antelope trở thành Linh Dương (羚羊/Ling yang). Một đảo khác trong Quần đảo Hoàng Sa (mảnh đất xa nhất phía Tây của nhóm An Vĩnh), được gọi là ‘West Sand’ (Cát Tây) bằng tiếng Anh và có vẻ có khả năng là tên này đã được trao cho toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa thành Tây Sa (西沙/Xisha – ‘cát Tây’ trong tiếng Trung). Bãi ngầm Macclesfield, ở trung tâm Biển Đông, được đặt tên là Nam Sa (南沙/Nansha – cát Nam) và quần đảo Trường Sa có tên Đoàn Sa (團沙/Tuansha – ‘cát tụ’).[21] Tất nhiên điều đáng lưu ý ở đây là bãi ngầm Macclesfield được coi như ở‘phía Nam’.
Rõ ràng là trong nhiều trường hợp uỷ ban chỉ việc dịch tên của các thể địa lý trên các bản đồ của Anh sang tiếng Trung, kể cả rất nhiều các lỗi hiện có và thêm vào một số lỗi của chính họ. James Shoal có vẻ là một ví dụ. Ủy ban cho nó cái tên Trung Quốc Zengmu (曾母 [Tăng Mẫu] – phiên âm của James) Tan. Nhưng tan (滩 [than]) là từ tiếng Trung chỉ một bãi biển hoặc bãi cát – một cái gì đó lộ ra trên mặt nước. Tuy nhiên trong thuật ngữ hàng hải tiếng Anh, shoal là một thể địa lý ngầm – một khu vực được nâng lên của đáy biển (từ có nguồn gốc từ một từ tiếng Anh cổ có nghĩa là ‘cạn’). Thật ra bãi ngầm James ở dưới mặt nước 22 mét. Nhưng do việc uỷ ban xa lạ với khu vực này nên họ cho rằng nó là một thể địa lý nổi (có đất). Vì vậy, trong chừng mực nào đó có vẻ như yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông là dựa trên một lỗi dịch thuật. Chỗ mà giờ đây được mô tả như là ‘điểm cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc’ lại không tồn tại – chẳng hơn Vạn Lý Thạch Đường tám thế kỷ trước chút nào.
Ủy ban tiếp tục với nhiệm vụ lãnh thổ của mình. Ba tháng sau, vào tháng 4 năm 1935, họ xuất bản Bản đồ các đảo của Trung Quốc ở Biển Đông (中国南海各岛屿图 [TQ Nam Hải các đảo tự đồ]), đưa biên giới trên biển của nước này xuống đến tận 4° N – vị trí của bãi ngầm James, chỉ cách bờ biển Borneo 107 km và cách Trung Quốc hơn 1 500 km.[22] Sau đó, một trong những nhà địa lý nổi tiếng nhất của Trung Quốc, Bạch Mi Sơ (白眉初/Bai Meichu), thêm vào sáng kiến của mình. Bạch Mi Sơ là một trong những người sáng lập Hội địa lý Trung Quốc. Ông cũng là một nhà yêu nước hăng hái và vào năm 1930 đã vẽ phiên bản riêng của mình ‘bản đồ quốc sỉ Trung Quốc’ để cho đồng hương ông biết lãnh thổ mà họ đã mất tới mức nào.[23] Trong năm đó Bạch Mi Sơ trở thành Trưởng ban biên tập của Hội, ông tuyên bố: ‘Yêu nước là ưu tiên hàng đầu trong việc học địa lý, còn xây dựng đất nước là điều mà việc học địa lý nhắm tới.’[24] Năm 1936, ở tuổi 60, ông đã tạo ra di sản lâu dài nhất của mình: một bản đồ trong tập bản đồ kiến thiết Trung Hoa mới (中华建设新图 [TH kiến thiết tân đồ]) của ông bao gồm đường hình chữ U ngoằn ngoèo trên Biển Đông xa về phía Nam tới tận bãi ngầm James. Đường này sau đó đã được nhiều người khác sao chép lại. Từ năm 1936 đến 1945 nhiều phiên bản của đường này đã được công bố trên 26 bản đồ khác. Một số kéo dài đến tận bãi ngầm James, dù hầu hết chỉ bao gồm quần đảo Trường Sa.[25] Một thập kỷ sau, chính đường vẽ của Bạch Mi Sơ được chính phủ Trung Quốc nắm lấy, sao chép và khẳng định để xác định vùng lãnh thổ đảo lịch sử của Trung Quốc.
Tất cả việc lập danh sách và vẽ bản đồ này đã kết thúc đột ngột khi Nhật Bản xâm lược Trung Quốc năm 1937. Công việc bảo vệ chủ quyền đất nước đã được chuyển cho quân đội và các đối tượng căm phẫn dân tộc trước đây của người Trung Hoa – Anh, Nga và Hoa Kỳ nói riêng đã trở thành đồng minh chống lại kẻ thù lớn hơn. Nhưng Thế chiến thứ Hai sẽ thiết lập lại cuộc tranh giành lãnh thổ ở Biển Đông. Nhật Bản đã xâm chiếm Đài Loan vào năm 1895, do đó, khi lực lượng Mỹ tại Philippines đầu hàng tháng 5 năm 1942 gần như toàn bộ bờ biển của Biển Đông, từ Đài Loan đến Singapore và ngược lại, đều rơi vào sự kiểm soát của một thế lực duy nhất lần đầu tiên trong lịch sử dài hàng thiên kỷ của mình. Biển Đông đã trở thành một cái ‘hồ của Nhật’ và sẽ vẫn như vậy cho đến tháng 1 năm 1945. Nhật chiếm đóng đảo Phú Lâm trong Quần đảo Hoàng Sa và đảo Ba Bình trong Quần đảo Trường Sa. Các cơ sở trên đảo Ba Bình hầu như đã bị phá hủy khi máy bay Mỹ ném bom lửa napalm và liên tục tấn công vào ngày 1 tháng 5 năm 1945 và đảo này bị bỏ trống một lúc nào đó trước khi toán trinh sát Mỹ đến vào ngày 18 tháng 11 năm 1945.[26] Hai lính đặc nhiệm Australia từ tàu ngầm USS Pargo của Mỹ đã đổ bộ lên đảo Phú Lâm trong Quần đảo Hoàng Sa ngày 3 tháng 2 năm 1945, và thấy hai người Nhật và một người Châu Âu sống ở đó dưới cờ tam tài (ba màu) của Pháp. Sau khi hai lính Australia rút lui, tàu Pargo bắn phá tất cả các nhà cửa.[27] Ngày 8 tháng 3 máy bay Mỹ dội bom các trạm vô tuyến điện trên cả hai đảo Phú Lâm và Hoàng Sa.[28] Và khi một tàu ngầm khác, tàu USS Cabrilla, đến đảo Phú Lâm vào ngày 2 tháng 7, cờ ba màu vẫn còn tung bay, nhưng lần này với một lá cờ trắng bên trên nó.[29]
Khi tiến trình chiến tranh xoay chuyển, phe đồng minh bắt đầu thảo luận về việc các đường sẽ được vẽ trên bản đồ ở chỗ nào một khi cuộc chiến kết thúc. Ngay từ tháng 5 năm 1943, một vài tuần sau trận đánh Guadalcanal, Bộ Ngoại giao Mỹ đã soạn xong tài liệu T-324 để giúp quyết định những gì nên làm về các đảo ở Biển Đông. Không thể có việc cho phép Nhật Bản ở tiếp trên các đảo này, nhưng vì các đảo này không là ‘lợi ích sống còn đối với bất kỳ quốc gia hoặc lãnh thổ nào’, lập trường của Mỹ vẫn mù mờ.[30] Các tài liệu sau đó tiếp tục chủ đề này, lập luận rằng không một quốc gia duy nhất nào có một yêu sách rõ ràng đối với các đảo. Tài liệu GAG-301, ‘Trường Sa và các đảo khác (Shinnan Gunto [Tân Nam quần đảo])’, soạn vào ngày 19 tháng 12 năm 1944 trước thềm Hội nghị Yalta, khuyến cáo rằng Quần đảo Trường Sa được đặt dưới quyền ‘tổ chức quốc tế dự phóng’ – tức Liên Hợp Quốc sau này – mặc dù lưu ý rằng điều này sẽ đòi hỏi sự chấp thuận của Pháp. Tài liệu khác, CAC-308, đề xuất ba phương án cho Quần đảo Hoàng Sa: ủy thác quốc tế, thỏa thuận giữa Trung Quốc và Pháp, hoặc thứ ba ủng hộ yêu sách của Trung Quốc ‘trừ khi Pháp đưa ra bằng chứng về việc Trung Quốc chuyển giao Quần đảo Hoàng Sa cho An Nam năm 1816’.[31] Tuy nhiên, sau chiến tranh Bộ Ngoại giao Mỹ nhận ra việc để bất kỳ đảo nào đặt dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp Quốc là khó có thể xảy ra vì nó sẽ đòi hỏi một mức độ linh hoạt khó có thể có từ Pháp. Kết quả là lập trường của Mỹ vẫn mù mờ.
Vào ngày 04 tháng 7 năm 1946, Philippines trở thành độc lập với Hoa Kỳ và ít hơn ba tuần sau đó Phó tổng thống Elpidio Quirino tuyên bố Quần đảo Trường Sa là một phần thuộc vùng ảnh hưởng của Philippines. Nhà chức trách Pháp, cố gắng để tái khẳng định quyền kiểm soát Đông Dương, đã phái một tàu quét mìn, FR Chevreuil, ra Quần đảo Trường Sa. Tàu này thấy rằng quần đảo không có người ở, và ngày 5 tháng 10 năm 1946, đã đặt một cột mốc đá trên đảo Ba Bình khẳng định chủ quyền của Pháp. Ngày 9 tháng 12 năm 1946, vừa mới nhận được của Mỹ một số tàu, thuyền viên được đào tạo và hải đồ các vùng biển, Hải quân Trung Quốc đã phái hai tàu tới Quần đảo Hoàng Sa và hai tàu khác tới Quần đảo Trường Sa.[32] Tàu Taiping (Thái Bình – trước đây là tàu sân bay USS Decker) và Zhongye (Trung Nghiệp – có thể là tàu USS LST-1056) đến đảo Ba Bình vào ngày 12 tháng 12, các thủy thủ đã dựng một cột mốc đá khác ở đó, tuyên bố chủ quyền đảo cho Trung Quốc. Sau đó, vào tháng 1 năm 1947, quân Trung Quốc và Pháp đổ bộ lên các đảo khác nhau trong Quần đảo Hoàng Sa một lần nữa thể hiện tuyên bố chủ quyền đối nghịch (để biết thêm về điều này xem Chương 3).
Tháng 5 năm 1947, Quốc hội Trung Quốc thông qua một kiến nghị kêu gọi chính phủ phục hồi toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa từ tay Pháp, bằng vũ lực nếu cần thiết, và ‘phân định ranh giới lãnh thổ của chúng ta’ rõ ràng. Vũ lực là khó có thể, nhưng phân chia ranh giới lãnh thổ thì dễ dàng hơn. Sở Địa lý của Bộ Nội chính soạn thảo một danh sách các tên mới cho tất cả các đảo trong Biển Đông. Đảo Itu-Aba (Ba Bình) được đổi tên thành đảo Taiping (太平 [Thái Bình]) và đảo Thị Tứ được đổi tên thành Zhongye (中业 [Trung Nghiệp]) theo tên hai tàu được phái tới trong chuyến đi vào năm 1946) và các thể địa lý khác đã được trao các danh hiệu yêu nước tương tự, chẳng hạn đảo Trường Sa đã trở thành Nanwei (南威[Nam Uy – uy dũng phía Nam]). Có lẽ nhận ra sai lầm của mình, Ủy ban đổi bãi ngầm James từ bãi cát (tan – than) thành rạn san hô ngầm (暗沙/Ansha [ám sa]) tức Tăng Mẫu ám sa. Tên của bốn nhóm các thể địa lý cũng đã được điều chỉnh: Quần đảo Hoàng Sa vẫn Tây Sa (西沙/Xisha [Cát Tây]) nhưng Pratas trở thành Đông Sa (东沙/Dongsha [Cát Ðông]). Tên Nam Sa (南沙/Nansha [Cát Nam]) mà trước đó dùng để gọi bãi ngầm Macclesfield đã được chuyển về phía Nam để chỉ Quần đảo Trường Sa, còn bãi ngầm Macclesfield (trước đây là Nam Sa) đã được chỉ định lại thành Trung Sa (中沙/Zhongsha [Cát Giữa]).
Đến cuối năm 1947, bộ [nội chính] đã hoàn thành một bảng tham chiếu chéo cho tất cả các tên cũ và mới của các đảo và đảo nhỏ mà số lượng đã bò lên tới 159.[33] Danh sách này đã được chính thức công bố vào ngày 1 tháng 12, cùng ngày các đảo này đều chính thức đặt dưới sự quản lý của Đặc khu Hải Nam.[34] Trong khoảng thời gian đó, bộ đã in một ‘Bản đồ vị trí các đảo của biển Nam [Trung Quốc]’(南海诸岛位置图 [Nam hải chư đảo vị trí đồ]), được Bộ chính thức công bố tháng 2 năm 1948 như là một phụ trang cho ‘bản đồ khu vực hành chính mới của Trung Hoa Dân Quốc’ (中 華 民 國 行 政 區 域 圖 – Zhonghua minguo xingzheng quyu tu – Trung hoa dân quốc hành chánh khu vực đồ). Tất cả những cái tên mới được đưa vào cùng với đường [chữ U] ban đầu được vẽ trên bản đồ của Bạch Mi Sơ một thập kỷ trước đó. Mười một vạch chạy dọc theo phía Đông của Biển Đông từ Đài Loan đến bờ biển Borneo và sau đó vòng về phía Bắc đến Vịnh Bắc Bộ có dạng một hình chữ U to. Không có lời giải thích chính thức nào về ý nghĩa của đường này được đưa ra mặc dù một trong những nhà vẽ bản đồ của Bộ, Vương Tích Quang (王锡光/Wang Xiguang), theo tường thuật đã nói rằng các vạch chỉ đơn giản là để chỉ trung tuyến giữa lãnh thổ của Trung Quốc – tức là mỗi đảo yêu sách – và của các nước láng giềng.[35]
Ngày 12 tháng 6 năm 1947 một cuộc họp giữa các quan chức Hải quân, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội chính Trung Hoa Dân Quốc đồng ý rằng chính phủ yêu sách tất cả mọi thứ bên trong đường [chữ U] nhưng sẽ đàm phán biên giới trên biển chính xác với các nước khác vào một ngày sau này và tuân theo luật pháp quốc tế hiện hành. Chưa có biên giới nào được phân định – đó là sự khởi đầu của điều mà sau này được gọi là ‘sự mơ hồ chiến lược’ ở Biển Đông.[36] Nhưng vào lúc đó sự tồn tại của Trung Hoa Dân Quốc được tính từng ngày. Trong vòng vài tháng lãnh đạo của nó đã chạy thoát sang Đài Loan và Đảng Cộng sản tuyên bố thành lập nước Cộng hòa nhân dân. Những người Cộng sản thừa nhận các bản đồ và các đường vẽ của chính phủ trước mặc dù, vào năm 1953, trong cái được giả định là một đặc ân cho những người cộng sản anh em đang đấu tranh giành độc lập, các nhà vẽ bản đồ của họ giảm số vạch thành 9 bằng cách loại bỏ hai vạch ở Vịnh Bắc Bộ giữa Trung Quốc và Việt Nam.[37] Biên giới trong khu biển này cuối cùng chỉ được xác định bởi hai nước vào năm 1999. Tháng 6 năm 2013, Cục đo đạc và Bản đồ Nhà nước Trung Quốc đã phát hành một bản đồ chính thức mới của đất nước và thêm một vạch thứ mười, ở phía Đông của Đài Loan, làm rõ rằng đó chắc chắn cũng là một phần của lãnh thổ quốc gia.[38]
Tháng 5 năm 2009, chính quyền Trung Quốc kèm bản đồ ‘đường chữ U’ vào công hàm nộp cho Ủy ban về Ranh giới Thềm lục địa Liên hợp quốc, lần đầu tiên sử dụng đường này trong một văn cảnh quốc tế chính thức. Phản ứng xung quanh khu vực là giận dữ và ồn ào. Điều đó cho thấy những ý tưởng về ranh giới và biên giới đã thay đổi xa tới mức nào từ lúc một nhà vẽ bản đồ Trung Quốc không rõ đã vẽ ‘Bản đồ Selden’ gần 400 năm trước. Ý tưởng vẽ các đường cố định trên bản đồ để phân ranh giới sự trung thành về chính trị là vô nghĩa vào lúc đó và ý tưởng cho rằng biển cũng có thể ‘sở hữu’ được là lố bịch. Đó đều là những khái niệm xuất hiện ở Châu Âu vào thế kỷ XVII và đã được các công ty kinh doanh và đế quốc đưa đến khu vực Đông Nam Á. Người Châu Âu đã vẽ các bản đồ mới rồi vẽ các đường mới và trong quá trình đó truyền bá các cách nghĩ mới về cả hai thứ đó. Đó là sự chuyển đổi từ một hệ ý tưởng này sang một hệ ý tưởng khác, từ hệ thống mandala sang hệ thống Westphalia, việc đó đã để lại một di sản về sự nhầm lẫn lịch sử và, trong nhiều năm kể từ khi “đường chữ U” được công bố, nảy sinh ra một cuộc chạy đua giành lãnh thổ ở Biển Đông.
B.H.
Dịch giả gửi BVN
[1] Hydrographic Office, The Admiralty, The China Sea Directory (London, 1889), vol. 2, 103, quoted in François-Xavier Bonnet, ‘Geopolitics of Scarborough Shoal’, Irasec’s Discussion Paper, no. 14 (November, 2012). Có thể xem tại https://www.irasec.com.
[2] Eric Tagliacozzo, ‘Tropical Space, Frozen Frontiers: The Evolution of Border Enforcement in Nineteenth-Century Insular Southeast Asia’, in Paul H. Kratoska, Remco Raben and Henk Schulte Nordholt (eds), Locating Southeast Asia: Geographies of KInowleges and Politic of Space (Singapore, 2005).
[3] Edward J. M. Rhoad, China’s Republican Revolution: The Case Of Kwangtung, 1895-1913 (Cambridge, Massachusetts, 1975).
[4] Straits Times, 21 October 1907, 5.
[5] Straits Times, 23 July 1909,3
[6] Straits Times, 29 March 1909, 7.
[7] Straits Times, 28 October 1909, 7.
[8] Straits Times, 23 December 1910, 7.
[9] .Guangdong dong tu [General Map of Guangdong Province], 1866 in Wan-Ru Cao and Zheng Xihuang (eds), An Atlas of Ancient Maps in China (Beijing, 1997), vol. 3, no.196; Guangdong yudi quantu [Atlas of Guangdong Province], 1897, in Ping Yan, China in Ancient and Modern Maps (London, 1998), 247.
[10] P. A. Lapicque, A Propos des Iles Paracels (Saigon, 1929), quoted in Monique Chemillier-Gendreau, Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands (Leiden, 2000), 101.
[11] Guangdong yu di quan tu [New Map Guangdong Province], 1909, quoted in François-Xavier Bonnet, ‘Geopolitics of Scarborough Shoal’, Irasec’s Discussion Paper, no. 14 (November, 2012), 15. Có thể xem tại https://www.irasec.com
[12] William A. Callahan, ‘The cartography of National Humiliation and the Emergence of China’s Geobody’, Public Culture, vol. 21, no. 1 (2009), 141-73.
[13] Han Zhen Hua (ed.), A Compilation of Historical Materials on China’s South China Sea Islands (Beijing, 1988), quoted in Zou Keyuan, Law of the Sea in East Asia: Issues and Prospects (Abingdon, 2005), 28.
[14] Han Zhen Hua (ed.), A Compilation of Historical Materials on China’s South China Sea Islands (Beijing, 1988), quoted in Zou Keyuan, The ChineseTraditional Boundary Line in the South China Sea and Its Legal Consequences for the Resolution of the Dispute Over the Spratly Islands, International Journal of Marine and Coastal Law, vol. 14, no. 1 (1999), 27-55.
[15] William A. Callahan, Historical Legacies and Non/Traditional Security:Commemorating National Humiliation Day In China, Paper presented at Renmin University, Beijing, April 2004. Có thể xem tại https://www.dur.ac.uk/resources/china_studies/Commemorating%20Naitonal%20Humiliation%20Day%20In%20China.pdf.
[16] Stein Tønesson, The South China Sea in the Age of European Decline, Modern Asian Studies, vol. 40 (2006), 1-57.
[17] François-Xavier Bonnet, ‘Geopolitics of Scarborough Shoal’, Irasec’s Discussion Paper, no. 14 (November, 2012), 15. Có thể xem tại https://www.irasec.com.
[18] Stein Tønesson, The South China Sea in the Age of European Decline, Modern Asian Studies, vol. 40 (2006), 24.
[19] Wai Jiao bu nan hai zhu dao dang an hui bian [外交部南海诸岛档案汇编/Ngoại giao bộ Nam Hải chư đảo đương án hội biên: tổng hợp hồ sơ của Bộ Ngoại Giao về các đảo Biển Đông] (Taipei, 1995), vol. 1, 47-9.
[20] Zou Keyuan, ‘The Chinese traditional Maritime Boundary Line in the South China Sea and Its Legal Consequences for the Resolution of Dispute Over the Spratly Islands’, International Journal of Marine and Coastal Law, vol. 14, no. 1 (1999), 27-55.
[21] François-Xavier Bonnet, ‘Geopolitics of Scarborough Shoal’, Irasec’s Discussion Paper, no. 14 (November, 2012), 18. Cp1 thể xem tại https://www.irasec.com
[22] Li Jinming and Li Dexia, ‘The Dotted Lines and the Chinese Map of the South China Sea: a Note’, Ocean Development and International Law, vol. 34 (2003), 287-95.
[23] William A. Callahan, China: Pessoptimist Naiton (Oxford, 2009).
[24] Wu Feng-Ming, ‘On the New Geographic Perspectives and Sentiment of High Moral Character of the Geographer Bai Meichu in Modern China’, Geographical Research, vol. 20 (2011), 2109-14.
[25] Han Zhen Hua, Lin Jin Zhi and Hu Feng Bin (eds) Wo Guo Nanhai shi liao huibian [Compilations of Historical Documents on Our Nanhai Islands], Dong Feng chu ban she, 1988, 353, quoted in François-Xavier Bonnet, ‘Geopolitics of Scarborough Shoal’, Irasec’s Discussion Paper, no. 14 (November, 2012), 22. Có thể xem tại https://www.irasec.com.
[26] United States Pacific Fleet, Patrol Bombing Squadron 128, Action Report 3 May 1945, available at http://www.fold3.com/image/#295881925, United States Pacific Fleet Commander Submarines, Philippines Frontiers War Diary, 11/1-30/45. Có thể xem tại http://www.fold3/image/#301980047.
[27] A. B. Feuer, Australian Commandos: Their Secret War Against the Japanese in World War II (Mechanicsburg, Pensylvania, 2006), Chapter 6.
[28] US Navy Patrol Bombing Squadron 117 (VPB-117), Aircraft Action Report No. 92, Có thể xem tại http://www.fold3/image/#302109453.
[29] US Navy, USS Cabrilla Report of 8th War Patrol. Có thể xem tại http://www.fold3/image/#300365402.
[30] Quoted in Kimie Hara, Cold War Frontiers in the Asia-Pacific: Divided Territories in the San Francisco System (Abingdon, 2006), 146.
[31] Ibid.
[32] Ulises Granados, ‘Chinese Ocean Policies Towards the South China Sea in a Transitional Period, 1946-1952’, The China Review, vol, 6, no. 1 (2006), 153-81, esp. 161.
[33] Yann-Huei Song and Peter Kien-hong Yu, “China’s ‘historic waters’ in the South China Sea: An Analysis from Taiwan, ROC”, American Asian Review, vol. 12, no. 4 (1994), 83-101.
[34] Zou Keyuan, ‘The Chinese traditional Maritime Boundary Line in the South China Sea and Its Legal Consequences for the Resolution of Dispute Over the Spratly Islands’, International Journal of Marine and Coastal Law, vol. 14, no. 1 (1999), 27-55, eps. 33.
[35] Li Jinming and Li Dexia, ‘The Dotted Lines and the Chinese Map of the South China Sea: a Note’, Ocean Development and International Law, vol. 34 (2003), 287-95, esp. 290.
[36] Wai Jiao bu nan hai zhu dao dang an hui bian [Compilation by the Department of Foreign Affairs of all records concerning the islands in the South China Sea] (Taipei, 1995), vol. 2, 784-88, quoted in François-Xavier Bonnet, ‘Geopolitics of Scarborough Shoal’, Irasec’s Discussion Paper, no. 14 (November, 2012), 22. Có thể xem tại https://www.irasec.com.
[37] Zou Keyuan, Law of the Sea in East Asia: Issues and Prospects (Abingdon, 2005), 83.
[38] . Euan Graham, ‘China’s New Map: Just Another Dash?’, NewsBrief of Royal United Services Institute, 3 September 2013. Có thể xem tại https://www.rusi.org/downloads/assets/201309_NB_Graham.pdf.