Đất nước của những tượng đài vô cảm

Hàng loạt địa phương có dự án xây dựng tượng Hồ Chí Minh (1). Có thể xem đây là một phong trào. Phong trào xây thêm tượng vốn đã quá nhiều ở đất nước này. Nhưng ý nghĩa của phong trào này là gì thì không ai rõ. Chỉ có thể giải thích rằng phong trào này xuất phát từ ý tưởng kinh doanh hình tượng lãnh tụ, và như thế là một sự khinh thường người dân đóng thuế.

Tôi có cảm tưởng rằng Việt Nam là một nước có nhiều tượng đài nhất nhì thế giới. Đi từ thành phố đến tỉnh lẻ và làng xã, hầu như chỗ nào cũng có một vài tượng đài. Có nơi có hàng chục tượng lớn nhỏ đủ kiểu. Ví dụ như Hà Nội đã có hơn 30 tượng đài, và người ta đang lên kế hoạch xây thêm hơn 30 tượng khác từ nay đến 2020. Sẽ rất thú vị nếu biết con số thống kê về tượng đài trên cả nước, nhưng với con số trung bình 20 tượng đài/tỉnh, tổng số tượng đài rất có thể lên đến con số hàng ngàn.

Tôi nghĩ người Việt Nam chúng ta từ xưa đã rất quan tâm đến tượng, nhưng ý nghĩa thì không giống như kiểu xây tượng đài ngày nay. Ngày xưa (trước 1975) ở miền Nam cũng có (tuy không nhiều) tượng đài, nhưng đa số là tượng của các anh hùng dân tộc. Chúng ta đã biết ở Sài Gòn có những bức tượng nổi tiếng như Trần Hưng Đạo, Trần Nguyên Hãn, Thánh Gióng, bên cạnh những tượng Phật Thích Ca và Chúa Jesus. Còn ở Rạch Giá có tượng Nguyễn Trung Trực rất nổi tiếng, nghe nói sau 1975 bị “cách mạng” cho xe tải đến kéo sập, nhưng không sập và thế là còn tồn tại đến ngày nay. Người dân xem tượng là cái gì linh thiêng, để tôn thờ; nếu không tôn thờ thì cũng là nơi để tỏ lòng kính trọng. Do đó, dù là đơn giản được cấu trúc bằng đất sét, nhưng không ai dám phá các tượng.

Ở miền Nam sau 1975 thì các tượng đài theo kiểu XHCN mới bắt đầu xâm nhập các miền quê và tỉnh lẻ. Sau 1975, các tượng đài trở thành đối tượng để ngắm nhìn là chủ yếu, chứ không phải để thờ phượng. Hồi còn nhỏ, tôi chưa biết cảm nhận được cái đẹp của những bức tượng đó; phải đến sau 1975 có dịp so sánh với các bức tượng theo motif XHCN (sẽ nói sau) tôi mới thấy cái thẩm mĩ và dân tộc tính của những bức tượng trước 1975.

Cái đặc điểm chủ yếu của các tượng đài Việt Nam là liên quan đến các sự kiện và nhân vật “cách mạng.” Phổ biến nhất có lẽ là tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tính đến nay đã có 31 tỉnh thành xây dựng tượng đài Hồ Chí Minh, và sẽ có 58 tượng Hồ Chí Minh sẽ được xây dựng từ nay đến 2030. Đi đâu cũng thấy ông, lúc thì giơ tay chào ai đó, lúc thì mặc cái áo khoác hờ hững, lúc thì nhìn ra sông (như tượng ở Cần Thơ), lúc thì nhìm chằm chằm vào người đối diện, lúc thì ôm trẻ em, v.v. Nói chung là ông xuất hiện khắp nơi và dưới vài kiểu cách. Kế đến là những nhân vật từng là đồng chí hay đàn em của ông. Một số khác là các tượng đài ghi lại một sự kiện xảy ra trong thời chiến tranh, và những tượng này không phải ai cũng biết và hiểu. Nhưng nhìn chung, các tượng đài sau này được dựng lên chủ yếu là để ngắm nhìn, thỉnh thoảng làm nơi chụp hình, chứ không phải là các tượng đài cho sự tôn kính và thờ phượng.

Một đặc điểm nổi bật sau này là rất ít những tượng đài liên quan đến các nhân vật trong lịch sử trước “cách mạng”. Tượng Lê Lợi ở bùng binh Cây Gõ đã bị cho “ra đi” không trở lại. Ngoài một số ít tượng đài mà Việt Nam Cộng hòa để lại (như tượng Trần Hưng Đạo, Trần Nguyên Hãn (cũng sắp ra đi), Thánh Gióng, v.v.) tượng của các anh hùng thời xưa đều bị thay thế bằng các đồng chí của cụ Hồ hay các sự kiện liên quan đến “cách mạng”. Có thể xem sự phân bố tượng đài vừa là một cách tuyên truyền, mà cũng là một cách xem thường và ngạo mạn với lịch sử.

Có thể nói rằng hầu hết các tượng đài “cách mạng” khá thô kệch và thiếu tính dân tộc. Tôi không phải là nhà điêu khắc, nên không biết phân tích sao cho có hệ thống; tôi chỉ biết nói lên cảm nhận cá nhân mà thôi. Cảm nhận của tôi là các bức tượng do các nhà điêu khắc Việt Nam thiết kế mang tính xã hội chủ nghĩa (XHCN). Nói trắng ra là bắt chước. Bắt chước Tàu, bắt chước Nga. Chẳng hạn như hình dưới đây cho thấy cách thiết kế tượng chủ tịch Hồ Chí Minh theo kiểu giơ tay là bắt chước theo tượng của Mao Trạch Đông và Kim Nhật Thành. Các loại tượng khác cũng thế. Vì bắt chước các nước vốn là thủ đô của tuyên truyền, nên các tác phẩm tượng đài của Việt Nam không có tính nghệ thuật cao, nếu không muốn nói là lai căng.

Chẳng những lai căng, mà còn rất thô và rất phi dân tộc tính. Rất nhiều bức tượng nhìn cứ như là những viên đá sắp xếp lại cho có thứ tự, chứ không có hồn. Thử nhìn và so sánh hai bức tượng Trần Hưng Đạo dưới đây sẽ thấy. Thử so sánh bức tượng Trần Nguyên Hãn hay tượng Thánh Gióng và bức tượng gì mà có mấy người chụm lại chung quanh những tảng đá màu trắng ở Sài Gòn sẽ thấy rất khác (xem hình). Một bên là thanh thoát và gần gũi, một bên là nặng chịch, dữ tợn. Hay hãy so sánh với bức tượng “Thương tiếc” (2) trong nghĩa trang Biên Hoà (nay đã bị giật sập) các bạn sẽ thấy tôi so sánh không quá đáng. Còn các nhân vật trong tượng đài XHCN thì thường được cho mập ú (không giống người Việt), lực lưỡng (như ông Tây), tay lúc nào cũng giơ cao, có khi tay cầm búa hoặc lưỡi liềm (rất ghê), có khi tay nắm lại như sắp đánh lộn, có khi tay mang súng trông rất hung dữ như sắp bắn ai, mặt thì lúc nào cũng vênh váo, v.v. Tóm lại, những bức tượng đó chẳng giống thần thái của người Việt chút nào cả.

Hay có khi họ tạc tượng Lý Thái Tổ (ngoài Hà Nội) thì lại trông giống một ông vua Tàu nào đó, như Tần Thuỷ Hoàng! Bức tượng Lý Thái Tổ còn làm cho ông già đến tuổi 60 trong khi ông dời đô về Thăng Long mới 36 tuổi. Có thể nói rằng những công trình tượng đài đang ngự trị ở Việt Nam ngày nay, dưới cái nhìn của một người bình thường, là những hình tượng thô kệch, xa lạ, vô hồn, phi dân tộc, và lai căng.

Các tượng đài ở Việt Nam còn rất kém chất lượng. Chẳng đâu xa, mới đây bức tượng lớn mới được khánh thành gọi là “Mẹ Việt Nam Anh Hùng” bị hư hỏng do… sét đánh. Bức tượng ở Quảng Ninh trị giá 25 tỉ đồng khi bị sét đánh mới tiết lộ chất lượng chẳng ra gì. Tượng Phật mới xây thì bị sập. Ngay cả tượng đài ở Điện Biên Phủ (41 tỉ đồng) cũng cùng chung số phận bị hư hỏng dù chỉ mới khánh thành, thậm chí còn bị rút ruột 30%. Nói chung là bất cứ tượng đài hoành tráng nào do Việt Nam xây đều có vấn đề về phẩm chất.

Chính vấn đề phẩm chất đặt câu hỏi lợi ích đằng sau phong trào xây dựng tượng Hồ Chí Minh. Người ta phải hỏi ông cụ Hồ đã có quá nhiều tượng trên khắp nước, lí do gì để xây thêm cho ông. Chẳng có lí do nào thuyết phục cả, ngoài lí do lợi ích nhóm hay lợi ích cá nhân. Ai cũng biết ở Việt Nam có xây dựng là có “chia chác”, có lại quả (kickback), hay nói trắng ra là có tham nhũng. Xây càng nhiều, lại quả càng cao, như một bài báo rất sinh động vừa phản ảnh (3).

Thật ra, nhìn toàn cảnh, phong trào xây tượng Hồ Chí Minh chỉ là một nhánh trong phong trào bao quát hơn. Đó là phong trào xây dựng viện bảo tàng, Văn Miếu, và đài tưởng niệm. Có lẽ khởi đầu là mấy đền thờ của những nhân vật như Lê Đức Thọ, Võ Văn Kiệt, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh, v.v. dần dần lan sang đền thờ của ba má ông cụ Hồ. Sau đó là trào lưu xây viện bảo tàng, có khi lên đến hàng vạn tỉ đồng. Sau viện bảo tàng là đến văn miếu, dù người chủ trương xây chưa biết thờ ai! Sau văn miếu, như chúng ta thấy là đến tượng chủ tịch Hồ Chí Minh. Tất cả là một dòng chảy về xây dựng, nó y chang như trào lưu bên Tàu, nơi mà tượng đài và khu du lịch được xây dựng rất nhiều.

Tôi đếm sơ qua những tượng đài và đền miếu xây trong thời gian gần đây (ở Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Hà Tĩnh, Nghệ An, v.v.) thì số tiền bỏ ra đã hơn 1300 tỉ đồng (tức khoảng 65 triệu USD). Ngay Sơn La đòi xây tượng Hồ Chí Minh với cái giá 1400 tỉ đồng thì không ngạc nhiên ai nghe tin cũng sốc. Càng sốc hơn khi Sơn La là một trong những tỉnh nghèo nhất ở Việt Nam, với tỉ lệ nghèo là 64%. Thật ra, các tỉnh vừa kể đều là những tỉnh nghèo hay rất nghèo. Ví dụ như Hà Giang và Điện Biên có tỉ lệ nghèo lên đến 71%. Nghèo mà đòi xây tượng nghìn tỉ đồng thì người bình thường nhất cũng nghĩ đến cái lợi ích đằng sau việc xây tượng.

Điều đáng nói là những lợi ích đó đã làm mờ mắt những người có quyền chức. Tại sao họ lại nghĩ đến việc xây tượng đài trong khi đất nước còn nghèo và người dân còn đói. Như Quảng Nam, mới xây xong tượng đài hoành tráng là ngay sau đó phải đi xin viện trợ gạo để cứu đói. Nghệ An và Hà Tĩnh cũng thế, cũng xin gạo trong khi có những dự án lớn nhằm vinh danh những người trong gia đình của ông cụ Hồ! Tại sao các quan chức không cảm thấy động lòng khi một em bé 10 tuổi ở Hà Tĩnh vì đói quá mà phải chết trên đường từ trường học về nhà (5). Đừng nói một cách vô cảm rằng đó là trường hợp cá biệt. Phong trào xây tượng đài nó chẳng những thể hiện cái tâm của các quan chức có vấn đề, cái tầm của họ quá thấp, mà còn thể hiện một sự ngạo mạn của họ trước những người dân nghèo đóng thuế để nuôi dưỡng họ. Những tượng đài như Sơn La đang có dự án xây dựng, nếu thực hiện, chỉ có chức năng chính là lưu lại cho đời sau một chứng tích của một trào lưu vô cảm từng một thời ngự trị trên đất nước này.

====

(1) http://www.tienphong.vn/…/hang-chuc-de-xuat-xin-dung-tuong-…

(2) http://nguoidongbang.blogspot.com.au/…/chuyen-bay-gio-moi-k…

(3) http://antt.vn/toi-di-mua-ho-so-thau-o-thai-nguyen-giam-doc…

(4) http://tuanvannguyen.blogspot.com.au/…/cau-sao-ban-o-viet-n…

(5) http://vtc.vn/qua-doi-bung-be-gai-lop-3-chet-khi-di-hoc-ve.…

 N. V. T.

Nguồn: https://www.facebook.com/drtuanvnguyen/posts/1473867476259707?__mref=message_bubble

This entry was posted in Lên Tiếng. Bookmark the permalink.