Bản đồ quyền lực của Trung Quốc (Bàn tay của Bắc Kinh có thể vươn tới đâu ở trên bộ và trên biển?)

Tập san Foreign Affairs (Đối ngoại) xuất bản hai tháng một lần bởi Tổ Khảo cứu liên hệ đối ngoại, một tổ chức tư gồm nhiều học giả và Giáo sư đại học. Hoạt động từ năm 1922 tới nay, tập san Foreign Affairs có khoảng 100,000 người mua và đã là nơi đầu tiên đăng các bài viết có ảnh hưởng rộng lớn đối với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Ví dụ, các bài viết của George Kennan năm 1947 là khởi đầu cho chính sách bao vây (containment) của Mỹ đối với sự bành trướng của phe CS sau Thế chiến II; John Foster Dulles viết về bồi thường chiến tranh của Đức; Louis Halle viết về chính sách của Mỹ đối với Nam Mỹ, Henry Kissinger viết về chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc trong chiến tranh Lạnh, Samuel Huntington viết về sự đụng độ của các nền văn hóa và tôn giáo sau chiến tranh Lạnh, và nay Robert Kaplan viết về chính sách của Mỹ đối với viễn tượng Đại Trung Quốc trên cạn cũng như trên biển.

Vì bài viết của Kaplan có nói đến việc Hoa Kỳ cần quan tâm trước đến sự bành trướng của Trung Quốc trên cạn cũng như trên biển, BVN đã nhờ dịch giả Trần Ngọc Cư dịch nguyên bài viết rất dài này để các học giả và lãnh đạo Việt Nam có dịp tìm hiểu thêm về chính sách bành trướng ảnh hưởng của Trung Quốc,

Và quả nhiên người dịch đã cung cấp một bản dịch đặc sắc lột tả hết những điều người viết muốn khám phá sâu tham vọng trên cạn và trên biển của Trung Quốc cũng như đối sách cần thiết nhìn trên tầm xa của Hoa Kỳ, không phụ lòng trông đợi của người đọc

Trên cạn, chính sách của Trung Quốc tạo ảnh hưởng bằng sức mạnh quân sự khi cần nhưng chủ yếu là khai thác vật liệu thô tại các nước yếu, di dân để làm công việc đó, và tràn ngập thị trường bằng hàng hóa Trung Quốc.

Trên biển, Trung Quốc dốc nhiều tiền bạc khai triển Hải quân để tuyên chiếm quyền sở hữu một “Địa Trung Hải phương Đông dưới ảnh hưởng tuyệt đối của Trung Quốc”, giống như Địa Trung Hải khi xưa dưới quyền kiểm soát tuyệt đối của La Mã và vùng biển Caribbean ngày nay dưới quyền kiểm soát tuyệt đối của Hoa Kỳ. Đó quả là những phát hiện tổng quát về chiến lược đa cực của Đại cường Trung Hoa mà bất kỳ một chính trị gia ở bất kỳ nước nào trong xu thế hiện nay cần nắm vững và nghiên cứu thấu đáo.

Bauxitte Việt Nam

Ghi chú về bản đồ: (1) Vùng ảnh hưởng tổng quát của Trung Quốc nằm trong đường vẽ trên bản đồ, được mệnh danh là Đại Trung Quốc (Greater China) ở trong bài viết; (2) những quốc gia đánh dấu đậm sẽ là những nước chống lại ảnh hưởng TQ (Ấn Độ, Bangladesh và Nhật Bản.)

Ghi chú về bản đồ: (1) Vùng ảnh hưởng tổng quát của Trung Quốc nằm trong đường vẽ trên bản đồ, được mệnh danh là Đại Trung Quốc (Greater China) ở trong bài viết; (2) những quốc gia đánh dấu đậm sẽ là những nước chống lại ảnh hưởng TQ (Ấn Độ, Bangladesh và Nhật Bản.)

Nhà nghiên cứu địa lý Anh Sir Halford Mackinder vào cuối bài báo nổi tiếng năm 1904 của mình, “Vai trò địa lý của lịch sử”, đã nhắc đến Trung Quốc (TQ) một cách rất đáng ngại. Sau khi giải thích tại sao vùng Á-Âu là điểm tựa địa chiến lược để nắm giữ quyền lực toàn cầu, Mackinder cho  rằng người TQ, nếu họ bành trướng được sức mạnh của mình ra ngoài biên giới quốc gia, “có thể tạo ra mối họa da vàng đe dọa tự do của cả thế giới chỉ vì họ có thể cộng thêm mặt tiền đại dương vào các tài nguyên của đại lục, một lợi thế cho đến nay người Nga vẫn chưa nắm được mặc dù họ đang chiếm giữ vùng chủ chốt”. Nếu gạt qua một bên óc kỳ thị chủng tộc biểu hiện qua bài viết, một định kiến khá phổ biến vào thời đại tác giả, cũng như thái độ hoảng hốt trước sự vươn dậy của một cường quốc không phải là Tây Phương vào bất cứ thời nào, Mackinder đã nói được điều này: trong khi Nga, tên khổng lồ Á-Âu thứ hai, cơ bản từng là, và còn là, một cường quốc trên đất liền với một mặt tiền đại dương bị băng đá chắn ngang, thì Trung Quốc, nhờ có một duyên hải dài 9.000 dặm Anh [15.400 km] với khí hậu ôn hòa và nhiều hải cảng thiên nhiên thuận lợi, là một cường quốc vừa trên đất liền vừa trên biển cả (Mackinder tỏ ra lo sợ có ngày Trung Quốc chiếm luôn cả Nga). Tầm với thực sự của TQ vươn từ Trung Á, nơi có nhiều trữ lượng khoáng sản và dầu khí phong phú, đến tận những tuyến vận chuyển quan trọng trên Thái Bình Dương. Về sau, trong cuốn Democratic Ideals and Reality (Lý tưởng dân chủ và tình hình thực tế), Mackinder tiên đoán rằng cùng với Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, Trung Quốc nhiên hậu sẽ dẫn đường cho thế giới bằng cách “xây dựng một nền văn minh mới cho một phần tư nhân loại, một nền văn minh không hẳn Đông Phương mà cũng không hẳn Tây Phương”.

Địa lý thuận lợi mà trời ban cho Trung Quốc là một sự kiện hiển nhiên đến nỗi thường bị bỏ quên trong các cuộc thảo luận về tính năng động kinh tế và thái độ khẳng định chính mình của Trung Quốc. Tuy vậy, địa lý vẫn là chủ yếu: nghĩa là, Trung Quốc sẽ đứng ở trung tâm địa chính trị (geopolitics) cho dù con đường dẫn tới tư thế đại cường thế giới của Trung Quốc không nhất thiết là con đường thẳng (Trong 30 năm qua, mức tăng trưởng GDP hằng năm của Trung Quốc là trên 10%, nhưng gần như chắc chắn, mức tăng trưởng này không thể kéo dài thêm 30 năm nữa). Trung Quốc kết hợp tính hiện đại phương Tây ở cực bên này với một nền “văn minh dẫn thủy” (hydraulic civilization) ở cực bên kia – “văn minh dẫn thủy” là một từ do sử gia Karl Wittfogel nặn ra để mô tả các xã hội dùng quyền lực của chính phủ trung ương để kiểm soát việc dẫn thủy nhập điền. Từ này làm người ta nhớ đến Phương Đông thời cỗ: nhờ tập trung quyền lực ở trung ương, chế độ có thể, chẳng hạn, bắt hằng triệu người tham gia lao động để xây dựng các cơ sở hạ tầng quan trọng. Điều này làm cho Trung Quốc trở nên năng động một cách tàn nhẫn trong những đường lối mà các nền dân chủ, với tất cả thái độ hòa hoãn của mình, không thể nào trở nên năng động đến thế. Khi những nhà cai trị đội lốt cộng sản của Trung Quốc – mà thực chất là hậu duệ của khoảng 25 vương triều qua 4.000 ngàn năm lịch sử – tiếp thu công nghệ phương Tây cũng như các lề thói sinh hoạt phương Tây, họ đã vận dụng những điều mới mẻ này vào một hệ văn hóa tinh vi và có kỷ cương, với một kinh nghiệm độc đáo bao gồm việc thiết lập quan hệ triều cống với các quốc gia khác. Một viên chức Singapore nói với tôi vào đầu năm nay: “Người Trung Quốc tử tế với anh khi họ muốn tử tế, và họ sẽ chèn ép anh khi họ muốn chèn ép. Họ làm điều này một cách có hệ thống”.

Tính năng động trong nội bộ Trung Quốc tạo ra những tham vọng đối ngoại. Các đế quốc ít khi thành hình theo một thiết kế nhất định; chúng phát triển từ từ, một cách tự nhiên. Khi các quốc gia trở nên hùng mạnh hơn, chúng đâm ra có những nhu cầu mới và – điều này thoạt nghe có vẻ nghịch lý – những nỗi lo sợ khiến chúng phải bành trướng dưới nhiều dạng thức khác nhau. Thậm chí dưới quyền lãnh đạo của một số Tổng thống ít ai nhớ đến — chẳng hạn, Rutherford Hayes, James Garfield, Chester Arthur, Benjamin Harrison – kinh tế Hoa Kỳ vẫn phát triển liên tục và lặng lẽ vào cuối thế kỷ XIX. Khi quốc gia này buôn bán nhiều hơn với thế giới bên ngoài, nó bắt đầu có những quyền lợi kinh tế và chiến lược phức tạp tại những vùng xa xôi. Đôi khi, như tại Nam Mỹ và khu vực Thái Bình Dương, những lợi ích này đã biện minh cho hành động quân sự của Mỹ. Vào giai đoạn này, Hoa Kỳ đã có điều kiện để bắt đầu quan tâm dòm ngó ra ngoài vì Chính phủ liên bang đã hoàn toàn củng cố tình hình nội địa [từ bờ Đại Tây Dương sang bờ Thái Bình Dương – ND]; trận đánh quan trọng sau cùng trong các Cuộc chiến với người da đỏ (the Indian Wars) diễn ra năm 1890.

Ngày nay Trung Quốc cũng đang củng cố các vùng biên giới trên đất liền và cũng đang dòm ngó ra ngoài. Những tham vọng trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc cũng hung hăng (aggressive) như những tham vọng của Hoa Kỳ một thế kỷ trước đây, nhưng vì những lý do hoàn toàn khác biệt. Trung Quốc không đi vào chính sự thế giới (world affairs) bằng con đường khai hóa, nghĩa là tìm cách để truyền bá một ý thức hệ hay một thể chế chính quyền. Tiến bộ về mặt đạo lý trong các vấn đề quốc tế là một tiêu chí của Hoa Kỳ, chứ không phải là một tiêu chí của Trung Quốc; các hành động của Trung Quốc ở nước ngoài đều được thúc đẩy vì nhu cầu đảm bảo các nguồn năng lượng, các kim loại, và các khoáng sản chiến lược nhằm hỗ trợ mức sống đang lên của một dân số khổng lồ, tương đương với 1/5 dân số toàn cầu.

Nhằm thực hiện nhiệm vụ này, Trung Quốc đã thiết lập những quan hệ quyền lực có lợi cho mình với các lãnh thổ “núi liền núi, sông liền sông” và những địa phương xa xôi có nhiều tài nguyên thiên nhiên mà Trung Quốc đang cần đến để duy trì đà tăng trưởng kinh tế. Vì động lực thúc đẩy tham vọng của TQ ở nước ngoài có liên quan đến một quyền lợi cốt lõi của quốc gia – đó là sự sống còn về mặt kinh tế — người ta có thể định nghĩa Trung Quốc là một cường quốc theo chủ nghĩa thực tế cực đoan (an über-realist power). Trung Quốc đang tìm cách triển khai một sự hiện diện bền vững khắp các xứ châu Phi có nhiều trữ lượng dầu hỏa và khoáng sản đồng thời muốn đảm bảo việc sử dụng các cảng khắp Ấn Độ Dương và Biển Nam Trung Quốc [the South China Sea, ta gọi Biển Đông – ND], tức các vùng biển nối liền thế giới Ả rập-Ba tư với duyên hải Trung Quốc. Không còn lựa chọn nào khác hơn và vì lợi ích kinh tế, Bắc Kinh cứ việc nhắm mắt trước bất cứ thể chế nào mà Trung Quốc muốn cầu thân; Trung Quốc cần ổn định chính trị, chứ không cần các đức tính theo quan niệm phương Tây. Và vì một số chế độ — như tại Iran, Myanmar (Miến Điện), và Sudan — vừa là tồi tệ vừa là độc tài, việc Trung Quốc lùng sục tài nguyên khắp thế giới đã đưa đến xung đột với Hoa Kỳ, một nước có khuynh hướng rao giảng dân chủ-nhân quyền, cũng như đưa đến xung đột với các quốc gia như Ấn Độ và Nga chỉ vì Trung Quốc lấn vào vùng ảnh hưởng riêng của họ.

Chắc chắn, Trung Quốc không phải là một vấn đề sống chết của những quốc gia này. Rủi ro chiến tranh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ quả là xa vời; sự đe dọa quân sự của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ chỉ là gián tiếp. Thách thức mà Trung Quốc đặt ra chủ yếu có tính cách địa lý — bất chấp những vẫn đề nghiêm trọng khác liên quan đến quốc trái (debt), mậu dịch, và tình trạng hâm nóng địa cầu. Vùng ảnh hưởng mới xuất hiện của Trung Quốc tại Á-Âu và Châu Phi đang gia tăng — sự kiện này không nằm trong ý nghĩa đế quốc của thế kỷ XIX nhưng, một cách thế tế nhị hơn, khá phù hợp với thời đại toàn cầu hóa. Chỉ vì muốn đảm bảo các nhu cầu kinh tế, Trung Quốc đang thay đổi cán cân lực lượng tại Đông bán cầu, và việc này chắc chắn làm cho Hoa Kỳ hết sức lo ngại. Cả trên lục địa lẫn trên đại dương, nhờ được tiếp sức bởi vị trí thuận lợi của Trung Quốc trên bản đồ, ảnh hưởng của Bắc Kinh đang lan tỏa và bành trướng từ Trung Á đến Biển Nam Trung Quốc (the South China Sea), từ miền Viễn Đông của Nga đến Ấn Độ Dương. Trung Quốc là một cường quốc lục địa (continental power) đang vươn dậy, và như câu nói thời danh của Napoleon, chính sách của những quốc gia thuộc loại này đã có sẵn trong vị trí địa lý của nó.

Hội chứng biên giới nhạy cảm

Tân Cương và Tây Tạng là hai vùng chính nằm trong biên giới của Trung Quốc có dân chúng chống lại sức thu hút của văn minh Trung Hoa. Trong một cách nào đó, sự kiện này chứng tỏ Tân Cương và Tây Tạng là những tài sản của đế chế Bắc Kinh. Hơn thế nữa, những căng thẳng mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa tại những vùng này đang làm cho quan hệ của Bắc Kinh với các quốc gia lân cận trở nên phức tạp.

“Tân Cương”, tên của một tỉnh cực Tây của Trung Quốc, có nghĩa là “lãnh địa mới” và là phần Turkestan thuộc Trung Quốc, một diện tích gấp đôi bang Texas, nằm cách xa vùng trung châu và ở phía bên kia Sa mạc Gobi. Trung Quốc đã là một quốc gia trong một hình thức nào đó qua 4.000 năm lịch sử, nhưng Tân Cương mới chính thức trở thành một phần của lãnh thổ Trung Quốc vào cuối thế kỷ XIX. Kể từ đó, theo lời một nhà ngoại giao thế kỷ XX của Anh, Sir Fitzroy Maclean, lịch sử tỉnh Tân Cương “là một lịch sử liên tục biến động”, thỉnh thoảng có những cuộc vùng dậy và có những giai đoạn độc lập xen kẽ, mãi cho đến thập niên 1940. Năm 1949, lực lượng Cộng sản của Mao Trạch Đông tiến vào Tân Cương và dùng vũ lực để sáp nhập tỉnh này vào phần còn lại của Trung Quốc. Nhưng mãi đến gần đây, năm 1990 và năm ngoái, người dân tộc Hồi Ngột (Uighurs) — hậu duệ của người Turk từng cai trị Mông Cổ vào thế kỷ VII và thế kỷ VIII – đã nổi loạn chống lại chế độ cai trị của Bắc Kinh.

Sắc tộc Hồi Ngột tại Trung Quốc có dân số khoảng tám triệu người, chưa được 1% dân số Trung Quốc, nhưng họ chiếm đến 45% dân số Tân Cương. Dân đa số của Trung Quốc, tức người Hán Hoa, tập trung đông đảo tại các đồng bằng trung châu và gần Thái Bình Dương, trong khi đó những cao nguyên khô cằn ở phía Tây hoặc Tây Nam lãnh thổ Trung Quốc là quê hương lịch sử của các dân tộc ít người Hồi Ngột và Tây Tạng. Sự phân bố dân số này vẫn còn là nguyên nhân gây ra căng thẳng, vì trong nhãn quan của Bắc Kinh, nhà nước hiện đại Trung Quốc phải có toàn quyền kiểm soát đối với các vùng cao nguyên. Để giữ vững những vùng này – cùng với dầu hỏa, khí đốt thiên nhiên, và quặng sắt trong lòng đất – trong nhiều thập niên qua Bắc Kinh đã đưa người Hán Hoa từ vùng trung châu lên định cư tại những vùng cao nguyên này. Bắc Kinh vẫn tiếp tục mạnh dạn ve vãn các nước cộng hoà độc lập ở Trung Á có gốc Turk, đồng chủng với người Hồi Ngột, một phần nhằm tước đoạt bất cứ căn cứ địa nào mà người Hồi Ngột ở Tân Cương có khả năng lập ra ở ngoài biên giới Trung Quốc.

Bắc Kinh cũng tiếp tục ve vãn các chính phủ Trung Á để nới rộng vùng ảnh hưởng; Trung Quốc đã tiến sâu vào vùng Á-Âu (Eurasia), nhưng chưa đủ sâu nếu xét đến nhu cầu của Trung Quốc về tài nguyên thiên nhiên. Ảnh hưởng của Bắc Kinh tại Trung Á nằm dưới dạng hai ống dẫn dầu chính đi vào Tân Cương sắp được hoàn tất: một để dẫn dầu từ biển Caspian băng ngang qua Kazakhstan, còn ống kia dẫn khí đốt từ Turkmenistan băng ngang qua Uzbekistan và Kazakhstan. Sự thèm khát tài nguyên thiên nhiên của Trung Quốc còn có nghĩa là Bắc Kinh sẵn sàng liều lĩnh nhằm đảm bảo những tài nguyên này. Bắc Kinh đang khai thác đồng ở phía Nam Kabul, tại Afghanistan, một quốc gia đang tan nát vì chiến tranh, và đang dòm ngó các mỏ sắt, vàng, uranium, và đá quí ở trong vùng (vùng này có một số trong những lớp đá quí cuối cùng của thế giới mà chưa ai khai thác). Bắc Kinh cũng hi vọng xây được đường sá và ống dẫn năng lượng xuyên qua Afghanistan và Pakistan, nối vùng ảnh hưởng vừa mới manh nha ở Trung Á với các cảng trên Ấn Độ Dương. Địa bàn chiến lược của Trung Quốc sẽ được tăng cường nếu Hoa Kỳ ổn định được tình hình Afghanistan.

Cũng như Tân Cương, Tây Tạng là rất thiết yếu cho quan niệm tự-tạo về lãnh thổ (territorial self-conception) của Trung Quốc, và cũng như Tân Cương, Tây Tạng ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại của Trung Quốc. Đó là lý do tại sao Bắc Kinh nhìn viễn tượng một Tây Tạng tự trị với nỗi kinh hoàng, đừng nói chi đến độc lập, và đó là lý do tại sao Bắc Kinh cuống cuồng xây dựng đường sá và các tuyến xe lửa băng qua vùng này. Nếu mất Tây Tạng, lãnh thổ Trung Quốc sẽ teo lại khá nhiều – và Ấn Độ sẽ được cộng thêm một khu vực phía Bắc vào căn cứ quyền lực tiểu lục địa của mình.

Với dân số hơn một tỉ người, Ấn Độ lọt thỏm như một cái nêm địa lý rất xốn xang trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc tại Châu Á. Một bản đồ của “Đại Trung Quốc” (Greater China) trong cuốn The Grand Chessboard (Bàn cờ vĩ đại) của Zbigniew Brzezinski, xuất bản năm 1997, đã làm nổi bật điểm này. Ở một mức nào đó, do vị trí địa lý, Trung Quốc và Ấn Độ bị định mệnh bắt làm đối thủ của nhau: hai nước láng giềng có dân số khổng lồ, có những nền văn hóa phong phú và đáng kính nể, đã có lịch sử tranh giành lãnh thổ (như trường hợp tiểu quốc Ấn Độ Arunachal Pradesh). Vấn đề Tây Tạng chỉ làm cho những vấn đề này trở nên nghiêm trọng thêm mà thôi. Ấn Độ là nước dung dưỡng Chính phủ Đạt-lai Lạt-ma lưu vong từ năm 1957, và theo Daniel Twining, một Nghiên cứu trưởng tại Quĩ Marshall của Đức (the German Marshall Fund), những căng thẳng biên giới gần đây giữa Trung Quốc và Ấn Độ “có thể liên quan đến những lo âu của Bắc Kinh về kẻ sẽ kế vị Đạt-lai Lạt-ma”: vị Đạt-lai Lạt-ma tương lai có thể phát xuất từ vòng đai văn hóa Tây Tạng chạy xuyên qua bắc Ấn, Nepal, và Bhutan, vì thế nhà lãnh đạo này có khả năng thân Ấn Độ và chống Trung Quốc thậm chí nhiều hơn cả vị đương kim Đạt-lai Lạt-ma. Trung Quốc và Ấn Độ sẽ chơi một “ván cờ lớn” không những tại những vùng này mà cả tại Bangladesh và Sri Lanka. Tân Cương và Tây Tạng nằm hẳn trong biên giới hợp pháp của Trung Quốc, nhưng quan hệ căng thẳng của Chính phủ Trung Quốc với người dân bản địa của hai tỉnh này cho thấy rằng khi Bắc Kinh bành trướng ảnh hưởng của mình ra ngoài khối dân Hán Hoa nòng cốt, nhà nước Trung Quốc nhất định gặp phải chống đối.

Từng bước ngấm ngầm đặt quyền cai trị

Ngay ở vùng Trung Quốc có phần biên giới an toàn, chính hình thể địa lý của nó cũng trông như có cái gì khiếm khuyết khá nguy hiểm – cơ hồ có những phần thuộc về Đại Trung Quốc trước đây đã bị tháo gở. Biên giới phía Bắc Trung Quốc ôm quanh Mông Cổ, một lãnh thổ khổng lồ nom như trong quá khứ nó đã bị khới ra khỏi lưng Trung Quốc. Mông Cổ là một trong những nước có mật độ dân số thấp nhất thế giới và mật độ này đang bị nền văn minh đô thị Trung Quốc đe doạ sát nách. Trong quá khứ đã chiếm lấy Ngoại Mông (Outer Mongolia) để lấy đất canh tác, trong một cách nào đó Bắc Kinh đang muốn chiếm lấy Mông Cổ thêm lần nữa để thoả mãn cơn khát thèm dầu hỏa, than đá, uranium, và những đồng cỏ tươi tốt hoang vu. Những công ty khai thác hầm mỏ của Trung Quốc đang tìm cách giành giựt những món béo bở trong kho tài sản nằm dưới lòng đất của Mông Cổ, vì nỗ lực công nghiệp hóa và đô thị hóa gần như vô độ đã biến Trung Quốc thành nước tiêu thụ hàng đầu những kim loại như nhôm, đồng, chì, kền, kẽm, thiếc, và quặng sắt; luợng kim loại của thế giới mà Trung Quốc tiêu thụ nhảy từ 10% lên 25% kể từ cuối thập niên 1990 đến nay. Trong khi Tây Tạng, Macao, và Hồng Kông đã nằm hẳn dưới sự kiểm soát của Bắc Kinh, cách ứng xử của Trung Quốc đối với Mông Cổ sẽ là chuẩn mực để thế giới đánh giá Trung Quốc đang nuôi ý đồ đế quốc đến mức độ nào.

Ở về phía Bắc Mông Cổ và ba tỉnh Đông Bắc của Trung Quốc là miền Viễn Đông của Nga, một vùng rộng lớn ngút ngàn, có diện tích gấp đôi Châu Âu, với một dân số rất nhỏ bé và ngày càng trở nên thưa thớt. Vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, nhà nước Nga đã mở mang bờ cõi vào vùng này, khi Trung Quốc đang còn yếu kém. Ngày nay, Trung Quốc đã mạnh, mà quyền lực của chính phủ Nga không chỗ nào yếu ớt hơn là ở một phần ba đất nước nằm về phía Đông. Ở bên kia biên giới Nga-Trung có khoảng 7 triệu người Nga sống trong vùng Viễn Đông của Nga – một con số có thể giảm xuống 4 triệu rưỡi trước năm 2015 – trong khi đó ở ba tỉnh Trung Quốc kế cận có đến khoảng 100 triệu người TQ: mật độ dân số bên phía Trung Quốc gấp 62 lần mật độ bên phía Nga. Dân di trú Trung Quốc đã và đang xâm nhập vào lãnh thổ Nga, định cư thành những nhóm đông đảo tại thành phố Chita, phía Bắc Mông Cổ, và nhiều nơi khác ở trong vùng. Thu gom tài nguyên thiên nhiên là mục đích chính của chính sách đối ngoại của Trung Quốc ở khắp mọi nơi, trong khi đó vùng Viễn Đông của Nga lại có những trữ lượng lớn khí đốt, dầu hỏa, gỗ, kim cương, và vàng. “Moscow lấy làm lo lắng về những đám dân Trung Quốc đông đảo sang định cư ở vùng này, theo sau họ là những công ty khai thác gỗ rừng và hầm mỏ”, David Blair, phóng viên tờ Daily Telegraph tại Luân Đôn đã viết như vậy mùa hè năm ngoái.

Cũng như trường hợp Mông Cổ, người Nga không lo sợ rằng một ngày nào đó quân đội Trung Quốc sẽ tràn qua biên giới hay chính thức sáp nhập vùng Viễn Đông của Nga vào lãnh thổ Trung Quốc. Điều đáng sợ là, quyền kiểm soát của Bắc Kinh xuyên qua di dân TQ và các tập đoàn TQ khai thác tài nguyên đang liên tục gia tăng. Trong thời Chiến tranh lạnh, những cuộc tranh chấp biên giới giữa Trung Quốc và Liên Xô đã đưa hằng trăm ngàn binh sĩ đến vùng xa xôi này của Tây Bá Lợi Á và đôi khi những cuộc chạm súng đã nổ ra. Vào cuối thập niên 1960, những căng thẳng này đã dẫn đến sự tan vỡ của khối Trung-Xô. Yếu tố địa lý có khả năng chia rẽ Trung Quốc và Nga, vì liên minh hiện nay giữa hai nước là hoàn toàn chiến thuật. Điều này có khả năng làm lợi cho Hoa Kỳ. Vào thập niên 1970, chính quyền Nixon đã có thể lợi dụng sự rạn nứt giữa Bắc Kinh và Moscow để mở đầu cuộc đối thoại với Trung Quốc. Trong tương lai, khi Trung Quốc đã trở thành một cường quốc lớn mạnh hơn, Hoa Kỳ có thể sẽ trở thành một đối tác với Nga trong một liên minh chiến lược nhằm đối trọng lại với Trung Quốc – đó là điều có thể quan niệm được.

Những hứa hẹn ở phía Nam Trung Quốc

Ảnh hưởng của Trung Quốc cũng đang bành trướng theo hướng Đông Nam. Thật vậy, với các quốc gia tương đối yếu ớt ở Đông Nam Á, sự xuất hiện một Đại Trung Quốc ít gặp sự chống đối nhất. Trung Quốc tương đối ít gặp trở ngại địa lý đối với các nước láng giềng như Việt Nam, Lào, Thái Lan, và Myanmar. Thủ đô tự nhiên của một vùng ảnh hưởng có trung tâm nằm trên sông Cửu Long và nối tất cả các nước Đông Dương bằng đường bộ và đường sông sẽ là Côn Minh, thuộc tỉnh Vân Nam của Trung Quốc.

Quốc gia lớn nhất của lục địa Đông Nam Á là Myanmar. Nếu Pakistan là Balkans của Châu Á, có nguy cơ chia năm xẻ bảy, thì Myanmar là Belgium vào đầu thế kỷ XX, có nguy cơ bị các nước láng giềng xâm lăng. Cũng như Mông Cổ, miền Viễn Đông của Nga, và các lãnh thổ ở biên giới trên đất liền của Trung Quốc, Myanmar là một quốc gia yếu kém nhưng rất giàu những tài nguyên thiên nhiên mà Trung Quốc rất thèm khát. Trung Quốc và Ấn Độ đang cạnh tranh nhau để phát triển cảng nước sâu Sittwe, nằm trên bờ Ấn Độ Dương thuộc Myanmar, vì cả hai cường quốc đều nuôi hy vọng sẽ xây ống dẫn dầu chạy từ các giếng dầu nằm ngoài khơi trong Vịnh Bengal.

Đối với toàn bộ vùng này, trên vài phương diện, Bắc Kinh đã dùng chiến lược chia để trị (divide-and-conquer). Trong quá khứ, Bắc Kinh đã thương thuyết song phương với từng nước trong ASEAN, chứ không thương thuyết với tất cả các nước trong tổ chức này như một khối. Ngay cả thỏa ước về một khu vực tự do mậu dịch mà Bắc kinh vừa ký kết với ASEAN cũng chứng tỏ Trung Quốc tiếp tục triển khai những quan hệ có lợi cho mình như thế nào. Trung Quốc sử dụng ASEAN như một thị trường để bán những hàng hóa đắt tiền do TQ sản xuất trong khi mua lại những nông phẩm rẻ tiền của ASEAN. Việc này dẫn đến thặng dư mậu dịch (xuất siêu) cho Trung Quốc, trong khi các nước ASEAN trở thành thị trường để TQ bán phá giá (dumping) các hàng công nghiệp được sản xuất với giá lao động rẻ mạt tại các thành thị TQ.

Sự kiện này đang diễn ra khi Thái Lan, một quốc gia có thời khá hùng mạnh nhưng đang bị chao đảo vì những vấn đề chính trị nội bộ gần đây, trở nên ngày càng yếu kém trong vài trò là chiếc neo chính trị trong vùng cũng như là đối trọng nội tại (inherent counterweight) chống lại sức bành trướng của Trung Quốc. Hoàng gia Thái, với một vị vua già yếu, không còn là một lực ổn định chính trị như từng diễn ra trong quá khứ, trong khi nạn bè phái đang khuấy động quân lực Thái Lan (Trung Quốc đang triển khai quan hệ quân sự song phương với Thái Lan, cũng như xây dựng những quan hệ như thế với các quốc gia Đông Nam Á khác, trong khi Hoa Kỳ đang giảm thiểu những hoạt động trong vùng để tập trung quân số vào các chiến trường Afghanistan và Iraq). Ở về phiá Nam của Thái Lan, cả Malaysia và Singapore đang đi vào thời kỳ quá độ đầy thách đố nhằm tiến tới dân chủ, trong khi các người hùng dựng nước (nation-building strongmen) như Mahathir bin Mohamad và Lý Quang Diệu của hai nước này đang nhạt dần trên chính trườngị. Malaysia ngày càng chịu ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc, nay trong lúc người Hoa thiểu số cảm thấy bị người Mã Lai đa số chèn ép. Và mặc dù tuyệt đại đa số dân Singapore là người Hoa, Chính phủ nước này vẫn canh cánh nỗi lo sẽ trở thành một chư hầu của Trung Quốc; vì thế qua nhiều năm nay, Singapore vẫn duy trì một quan hệ với Đài Loan về việc huấn luyện quân sự. Lý Quang Diệu đã công khai thúc đẩy Hoa Kỳ phải tích cực quan hệ hơn nữa với vùng này, cả về quân sự lẫn ngoại giao. Về phần mình, Indonesia đang lâm vào tình trạng tiến thối lưỡng nan: một mặt Indonesia cần đến sự hiện diện của hải quân Hoa Kỳ phòng khi cần chống lại sức ép của Trung Quốc, nhưng mặt khác lại sợ rằng nếu xuất hiện như một đồng minh của Mỹ, Indonesia sẽ gây phẫn nộ trong phần còn lại của thế giới Hồi giáo. Khi sức mạnh của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á đã qua thời cao điểm mà quyền lực của Trung Quốc thì đang vươn lên, các quốc gia trong vùng càng ngày càng hợp tác với nhau nhiều hơn nhằm giảm nhẹ chiến lược chia để trị của Bắc Kinh. Indonesia, Malaysia, và Singapore đã liên kết với nhau để chống hải tặc, chẳng hạn. Những quốc gia này càng biết dựa vào sức mình là chính, thì họ càng ít bị đe dọa vì sự trỗi dậy của Trung Quốc.

—————–

Xem toàn bộ bài viết dưới dạng PDF: ban-do-quyen-luc-cua-trung-quoc.pdf

This entry was posted in Trung Quốc. Bookmark the permalink.