Ngày 7/7 vừa qua, Tòa Án Trọng Tài Quốc Tế đã bắt đầu xét xử vụ kiện của Phi Luật Tân về yêu sách chủ quyền ‘đường lưỡi bò’ của Trung Quốc tại Biển Đông. Phái đoàn của Phi Luật Tân có khoảng 60 người gồm có Chủ Tịch Hạ Viện Feliciano Belmont Jr, Chủ Tịch Thượng Viện Franklin Dilon, Ngoại Trưởng Albert Del Rosario, Bộ Trưởng Tư Pháp Leila De Lima, Bộ Trưởng Quốc Phòng Voltaire Gazmin, Thẩm Phán Tòa Thượng Thẩm Antonio Carpio và nhiều nhân viên ngoại giao và tư pháp khác.
Trung Quốc không không tham dự vào phiên xử này. Đây là một phiên xử kín nhưng Tòa cho phép một số quốc gia quan tâm về vụ kiện gồm có Việt Nam, Mã lai, Nhật, Nam Dương và Thái Lan được gửi phái đoàn tới quan sát.
Phiên xử khởi đầu này kéo dài tới ngày 13/7. Đề tài của phiên xử là Tòa Trọng Tài có thẩm quyền xét xử vụ kiện này hay không? Trung Quốc đã tuyên bố từ chối không tham gia vụ kiện dựa trên lý do là Tòa không có quyền tài phán. Điều 9 của Phụ Lục XII quy định là khi có một bên không tham gia thì vụ kiện vẫn tiếp diễn. Tuy nhiên, trước khi ban hành phán quyết thì Tòa phải bảo đảm là Tòa có thẩm quyền xét xử tranh chấp cũng như đơn kiện có cơ sở pháp lý và thực tế.
Điều 5 của Phụ Lục XII quy định là tất cả các bên trong vụ kiện được cơ hội trình bày quan điểm. Do đó, Tòa dã thưởng xuyên cập nhật mọi diễn tiến cho Trung Quốc và mở cửa cho Trung Quốc tham gia bất cứ lúc nào. Tòa cũng sẽ cung cấp biên bản phiên xử và đón nhận mọi ý kiến từ phía Trung Quốc.
Đơn kiện của Phi Luật Tân
Trong bài phát biểu mở đầu đơn kiện của Phi Luật Tân về thẩm quyền và khả năng thụ lý vụ kiện, Ngoại Trưởng del Rosario tóm tắt 5 điểm tranh chấp giữa Phi Luật Tân và Trung Quốc. Thứ nhất, Trung Quốc không có quyền thực thi cái mà họ gọi là ‘quyền lịch sử’ trên mặt biển, đáy biển và vùng đất dưới đáy biển ngoài giới hạn được ấn định bởi Công Ước Quốc Tế về Luật Biển. Thứ hai, cái gọi là ‘đường chín đoạn’ không có bất kỳ cơ sở nào dưới luật quốc tế khi Trung Quốc muốn áp dụng yêu sách này để ấn định ‘quyền lịch sử’ của họ.
Thứ ba, các thực thể mà Trung Quốc dựa vào để khẳng định yêu sách của họ không phải là ‘đảo’ có khả năng tạo ra vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa mà chỉ là ‘đá’ theo định nghĩa của Điều 121(3) của Công Ước. Một số thực thể là các bãi đá cạn chỉ nằm trên mặt nước khi thủy triều rút (low tide elevations) và một số khác là những bãi đá chìm hoàn toàn nằm dưới mặt nước. Do đó, các thực thể này không có khả năng tạo ra quy chế nhiều hơn 12 hải lý và có một số bãi đá chìm không hưởng được quy chế nào hết dưới Công Ước. Những hoạt động cải tạo quy mô gần đây của Trung Quốc không thay đổi bản chất nguyên thủy của các thực thể này.
Thứ tư, Trung Quốc đã vi phạm Công Ước khi can thiệp vào việc thực thi chủ quyền và quyền tài phán của Phi Luật Tân. Ngoài ra, Trung Quốc đã phá hủy tới một mức độ không thể phục hồi môi trường biển bằng cách hủy diệt các rạn san hô tại Biển Đông gồm có khu vực nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Phi Luật Tân bằng cách đánh cá quá mức và đánh bắt những sinh vật có nguy cơ tuyệt chủng. Những hành vi này của Trung Quốc vi phạm Công Ước.
Lập Trường của Trung Quốc
Qua bản Tuyên Bố Lập Trường đưa ra ngày 7/12/2014, Trung Quốc cho rằng Tòa Trọng Tài không có thẩm quyền xét xử vụ kiện này dựa trên 3 lý do. Thứ nhất, vụ kiện này về mặt căn bản liên quan đến sự tranh chấp chủ quyền của một số thực thể ở Biển Đông và vì vậy nằm ngoài phạm vi của Công Ước.
Thứ hai, Trung Quốc và Phi Luật Tân đã đồng ý qua các văn bản song phương và Tuyên Bố Ứng xử của Các Bên tại Biển đông mà Trung Quốc ký với ASEAN trong năm 2002 là giải quyết tranh chấp bằng phương pháp thương lượng. Khi đơn phương tiến hành vụ kiện thì Phi Luật Tân đã vi phạm luật quốc tế.
Thứ ba, giả sử như đề tài kiện có liên quan tới việc diễn giải và áp dụng Công Ước, nhưng đề tài này thực chất và trong cốt lõi cũng liên quan tới việc phân định quyền hàng hải giữa hai quốc gia mà Trung Quốc qua tuyên bố bảo lưu trong năm 2006 đã loại hình thức tranh chấp này ngoài Công Ước. Do đó, quan điểm của Trung Quốc không tham gia vào vụ kiện này là hoàn toàn hợp pháp dưới luật quốc tế.
Phản hồi của Phi Luật Tân
Ngoại Trưởng del Rosario nhấn mạnh là Phi Luật tân không yêu cầu Tòa phán xét tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc mà chỉ xin Tòa giải thích quyền hàng hải của Phi Luật Tân tại Biển Đông, một vấn đề mà Tòa hoàn toàn có quyền tài phán.
Luật sư của Phi Luật Tân cũng lập luận rằng trên căn bản, vụ kiện này liên quan tới sự bất đồng quan điểm về nguồn gốc tạo ra quyền hàng hải giữa Phi Luật Tân và Trung Quốc. Theo cái nhìn của Phi Luật Tân, quyền hạn và trách nhiệm của các bên được quy định bởi Công Ước, không hơn không kém. Do đó, cái gọi là ‘quyền lịch sử’ mà Trung Quốc đưa ra nếu có dưới thông luật quốc tế thì rõ ràng có mâu thuẫn hoặc không phù hợp với các điều khoản của Công Ước. Vì vậy, để xác định quyền lịch sử này được áp dụng thế nào thì Tòa bắt buộc phải ‘diễn giải và áp dụng’ các điều khoản của Công Ước, một công tác nằm trong phạm vi thẩm quyền của Tòa. Hơn nữa, đơn kiện của Phi Luật Tân yêu cầu Tòa áp dụng các điều khoản của Công Ước một cách cụ thể, trực tiếp và rõ ràng không có gì trừu tượng hoặc ám chỉ. Vì vậy Tòa hoàn toàn có quyền tài phán.
Thứ hai, tuy Điều 298 của Công Ước quy định tranh chấp về chủ quyền lịch sử hoặc truyền thống của các vịnh nằm ngoài Công Ước nhưng vịnh phải nằm gần bờ biển của quốc gia ven biển. Trong quá khứ, Trung Quốc chưa bao giờ đưa ra lập luận chủ quyền lịch sử hoặc truyền thống trong tiến trình đối thoại ngoại giao với Phi Luật Tân. Dù sao đi nữa, yêu sách ‘đường chín đoạn’ không liên quan tới vịnh nào cả.
Thứ ba, Phi Luật Tân nói rằng việc phân định lãnh hải hoặc quyền hàng hải chỉ diễn ra khi các quyền đó của hai quốc gia lân cận phủ chờm hoặc chồng chéo lên nhau (overlapping maritime entitlements). Trong trường hợp này, chủ quyền lãnh hải hoặc hàng hải giữa hai nước không có phủ chờm lên nhau mà Phi Luật Tân chỉ yêu cầu Tòa xác nhận yêu sách chủ quyền đường chín đoạn của Trung Quốc và các thực thể đá chìm và đá cạn có cơ sở thế nào dưới các điều khoản của Công Ước.
Thứ tư, Tuyên Bố Ứng xử của Các Bên tại Biển Đông không phải là một văn bản pháp lý có tính ràng buộc, một điều mà chính Trung Quốc đã nhiều lần khẳng định. Hơn nữa, Tuyên Bố này kêu gọi các bên giải quyết tranh chấp theo luật quốc tế và theo Công Ước. Cũng nên lưu ý là cho dù ASEAN đã nhiều lần thúc giục tiến tới ký kết Bộ Quy Tắc Ứng Xử có giá trị pháp lý ràng buộc nhưng Trung Quốc luôn trì hoãn không muốn ký. Còn về Hiệp Ước Thân thiện và Hợp Tác tuy có tính ràng buộc nhưng Hiệp Ước cũng cho phép các bên giải quyết tranh chấp bằng những biện pháp hòa bình và hợp pháp khác. Đưa đơn kiện nhờ Tòa xét xử là một biện pháp hòa bình và hợp pháp. Phi Luật Tân phải tiến hành đơn kiện chỉ vì tất cả các nỗ lực đối thoại ngoại giao và thương thuyết với Trung Quốc trong nhiều năm qua không dẫn đến kết quả nào cả.
Những bước kế tiếp
Tòa đã cho hai bên tới ngày 20/7 để duyệt lại nội dung biên bản phiên xử vừa qua. Phi Luật Tân có tới ngày 23/7 để cung cấp thêm bài trả lời cho một số câu hỏi mà Tòa nêu ra trong phiên xử. Trung Quốc có tới ngày 17/8 để phản bác hoặc phản hồi những lập luận do Phi Luật Tân bổ túc. Tòa sẽ cố gắng đưa ra phán quyết về thẩm quyền trong năm nay.
Nếu Tòa phán là không có thẩm quyến xét xử thì vụ kiện sẽ chấm dứt. Đây là kết quả mà Trung Quốc mong muốn. Trung Quốc sẽ càng dạn dĩ lấn chiếm biển đảo tại Biển Đông. Các quốc gia trong vùng sẽ mất lòng tin và hệ thống luật pháp quốc tế dẫn đến việc hạy đua vũ trang hoặc liên minh quân sự với các cường quốc để bảo vệ chủ quyền. Nguy cơ chiến tranh xảy ra sẽ khó tránh được.
Nếu Tòa phán là có thẩm quyền xét xử thì Tòa sẽ ấn định một phiên xử kế tiếp để tiếp nhận bằng chứng và luận cứ xem đơn kiện của Phi Luật Tân có cơ sở thực tế và pháp lý hay không? Có nghĩa là vẫn còn phải chờ một thời gian khá dài trước khi Tòa ban ra phán quyết cuối cùng.
Trong lúc phiên xử đang diễn ra thì Trung Quốc lại yêu cầu Phi Luật Tân từ bỏ vụ kiện và trở lại đàm phán. Vấn đề là Trung Quốc có thực tâm và thiện chí đàm phán hay không? Trong thông báo khởi kiện gửi cho Tòa Đại Sứ Trung Quốc ngày 22/1/2013, Phi Luật Tân cho biết là họ đã bắt đầu tiến trình đàm phán với Trung Quốc từ năm 1995 nhưng tới năm 2012 thì Trung Quốc đuổi họ ra và chiếm luôn bãi cạn Scarborough. Từ đó đến này thì Trung Quốc đã tiếp tục các công trình cải tạo và xây đảo nhân tạo với ý đồ quân sự hóa các thực thể mà họ chiếm đóng tại Biển Đông.
Theo lời của Ngoại Trưởng del Rosario, phiên xử này không chỉ quan trọng đối với Phi Luật Tân mà còn là một phép thử cho hệ thống tư pháp quốc tế và đặc biệt là tính thiết thực của Công Ước Quốc Tế về Luật Biển mà theo đó, các cơ chế giải quyết tranh chấp cho phép “các nước yếu thách thức các nước mạnh dựa trên cơ sở bình đẳng với niềm tin là nguyên tắc thắng bạo lực, pháp lý trên vũ lực và lẽ phải vượt qua sức mạnh”. Trong Đại Hội VI Trung Ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 6/11/1938 tại Diên An, Thiểm Tây, Mao Trạch Đông đã đọc bài thuyết trình ‘Thách thức Chiến tranh và Chiến lược’ mà trong đó có câu “mọi quyền lực chính trị đều phát sinh từ họng súng“. Hậu duệ của Mao đã nghiêm chỉnh thực thi lời giáo huấn này với những bước tiến lấn chiếm tại Biển Đông. Chúng ta phải chờ xem công lý hay họng súng sẽ chiến thắng khi Tòa Trọng Tài ban hành phán quyết trong vài tháng tới.
N.V.T.
Tác giả gửi BVN