Những nguyên nhân của thói dối trá  

Lịch sử văn hóa của nhân loại cũng như của Việt Nam cũng là lịch sử đấu tranh giữa xác tín và dối trá. Xã hội loài người cũng như của một dân tộc, để không bị tan rã chắc chắn phải tựa vào sự xác tin . Trong quá trình tiến hóa của mình, loài người, từ người đứng thẳng (homo-erectus ) qua giai đoạn người khéo léo (homo habilis) cho đến người thông minh (homo-sapien) chắc chắn phải dựa vào sự xác tín của ngôn ngữ  trong mọi giao tiếp cộng đồng trên cơ sở xác tín.  Ngôn ngữ mà không xác tín thì ông nói gà, bà nói vịt làm sao có thể hiểu nhau. Con cháu của Viêm Hoàng Bách Việt xưa cũng biết tổng kết thành “ngôn tất tiên tín”, nghĩa là lời nói trước hết phải xác tín hoặc “dữ quốc dân giao dĩ tín”, lấy sự xác tín đễ giao tiếp trong nhân dân. Nguyễn Trãi khẳng định: “Tín dã quốc chi bảo”(xác tín là của quý của nước).

Nhưng con người cũng dần biết mặt trái của xác tín là “lừa dối”. Trong trường ca “Mặt đường khát vọng”, chương “Đất nước”,  nguyễn khoa Điềm từng viết “đánh lừa cái lưỡi là trái ớt cay”. Người tiền sử biết lừa con cá bằng miếng mồi và cái lưỡi câu, lừa thú rừng bằng hầm chông và cạm bẫy.  Dần dần họ biết lừa kẻ địch nên Tôn Tử bên Tàu thờ Chiến quốc tổng kết “binh tất yếm trá” (dùng binh tất phải lừa địch). Sự lừa lọc quả thật  là sản phẩm của con người. Vì thế mọi hệ thống tôn giáo từ mấy ngàn năm nay đều răn dạy về sự thật thà,  chống gian dối. Đức Phật dạy trong kinh Nikaya: “Xác tín là của báu tối thượng”. Kinh Thánh (Cựu ước –  Thi Thiên) chương 51 có câu: “Xin hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch. Và làm cho mới lại trong tôi một lòng ngay thẳng thánh thiện”.

Loài người dần dần biết dùng luật tục rồi dùng đạo đức, dùng pháp luật, dùng văn hóa để đề cao sự xác tín, thật thà, ngăn ngừa, trừng trị hành vi gian dối nhằm điều hòa các mối quan hệ cộng đồng. Nhiều bộ tộc có luật chặt tay, đuổi khỏi bộ tộc những kẻ gian dối, trộm cắp… Ngay ở nước ta hiện nay ở nhiều cộng đồng, đặc biệt là trong tôn giáo và tộc ít người, nhờ biết giữ luật tục lời răn của tôn giáo, biết giữ gìn đạo đức mà tệ gian dối ít hẳn.

Như thế, tệ dối trá với con người và xã hội là như hình với bóng. Đời nào, xã hội nào,  cộng đồng nào tạo ra được cho bản thân mình sự trong sạch trong suy và  hành động  sẽ có được ý nghĩ trong sáng, từ đó sẽ thu hẹp được khoảng  tối trong sâu thămr tâm hồn mình. Kinh nghiệm lịch sử cũng cho thấy, thành viên nào, đặc biệt là những thành viên có vai trò gọi là cầm cương nảy mực của cộng đồng xã hội, nhỏ là đám thân sĩ, hào lý  làng xã, lớn là quan lại triều đình, đến  chức sắc tôn giáo, bất cứ ai vi phạm luật tục, đạo đức, luật pháp… đều sẽ là đầu têu cho sự đánh mất xác tín, gia tăng dối trá, gây rối loạn kỷ cương xã hội. Thời kỳ Lê -Trịnh, triều chính suy đồi, quan lại tham nhũng, vua hèn yếu, ăn chơi trác táng, dân mất niềm tin (xác tín) nên mới xuất hiện những loại “vua lợn”, “vua quỷ” (Hai vua dâm dục và ác độc bị nhân dân chỉ mặt đặt tên).

Như vậy, từ xưa đến nay, những người cai trị đất nước, xưa là triều đình, nay là chính phủ, cũng như chức sắc tôn giáo có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì sự xác tín để giữ sự ổn định cộng đồng, làm ngược lại, tất yếu xã hội sẽ động loạn, nhẹ thì dân bất mãn, biểu tình phản đối , nghiêm trọng hơn thì họ bảo nhau vùng lên lật đổ chính quyền tham nhũng, bạo ngược.

Karl Marx – Người mà  hiện nay nhà cầm quyền Việt Nam vẫn coi là vị tổ sư của mình, đã từng viết về “dối trá” và “xác tín” trong một đoạn văn nổi tiếng khi ông còn trẻ như sau: “Tệ lớn nhất-tệ giả dối, gắn với báo chí bị kiểm duyệt, tệ xấu căn bản này của nó là nguồn gốc của tất cả những thiếu sót khác của nó, trong đó cả  mầm mống của mỹ đức cũng không có, tệ đó là nguồn gốc đáng ghét nhất- thậm chí xét theo quân điểm mỹ học cũng thế-  tệ xấu xa… Điều đó dẫn đến cái gì? Chính phủ chỉ nghe thấy tiếng nói của chính mình, duy trì sự lừa dối và cũng đòi nhân dân phải ủng hộ sự lừa dối đó. Còn nhân dân hoặc sẽ rơi vào tình trạng mê tín chinh trị, hoặc hoàn toàn quay lưng lại với cuộc sống quốc gia biến thành đám người chỉ sống với cuộc đời riêng tư… Làm cho nhân dân quen coi cái phạm pháp là tự do, coi  tự do là phi pháp, coi cái hợp pháp là cái không tự do…”( C.Mác TT, tập I NXBST tr 105).

Như vậy khi hệ thống chinh trị của đất nước, của xã hội duy trì sự thiếu xác tín, nghĩ một đằng nói một nẻo, luật pháp thiếu tính khả thi, người quản lý yếu kém mất đi vai trò cầm trịch xã hội, trong khi ấy, lại tôn thờ lý thuyết giáo điều, triệt tiêu phản biện, đàn áp người có ý kiến trái chiều là một chính thể độc tài, khép kín, sẽ kéo lùi sự phát triển xã hội. Xã hội ấy, lấy dối trá làm phương châm hành động, mối quan hệ cộng đồng dựa trên một thứ  “xác tín giả tạo”, là nguyên nhân dẫn đến sự bất ổn, tiềm tàng sự bùng nổ bất că lúc nào. Có thể nêu ra một vài dẫn chứng điển hình, ví như giới trí thức  buộc phải gian dối đễ làm khoa học, hệ thống công chức phải gian dối đễ thanh toán chi phí hội nghị, công tác phí, ngành giáo dục tự lừa dối mình và lừa dối xã hội…

Tôi dẫn thêm Nietzche, một triết gia hiện đại, là  người rất cực đoan và quyết liệt lên án sự giả dối  từ Giáo hội cho đến hệ thống triết học phương Tây. Ông quả quyết:  “Tất cả những  kẻ lừa đảo ngoại hạng có sức mạnh nhờ vào một điều đáng kể, trong khi thực chất lừa gạt người khác, kẻ lừa đảo luôn có niềm tin vào bản thân mình. Chính điều này lúc ấy giúp họ phát ngôn một cách tuyệt vời và đầy thuyết phục đối với mọi người chung quanh” ( dẫn theo F. Nietzche Triết nhân và thi nhân cua Trần thanh Hà, nxb Lao động, tr46)

          Như vậy, để có thể ngăn ngừa sự dối trá,  giới cầm quyền, giới tôn giáo, (gọi chung là giới tinh hoa) phải dọn mình tử tế, đàng hoàng, lập lại sự xác tín cả về triết lý nhận thức, cả đường lối chủ trương, cả trong hành vi ứng xử, không được cứ mãi “nói dzậy mà không phải dzậy”.

Từ một học thuyết giáo điều, duy ý chí, thiếu xác tín, K. Marx và các lãnh tụ Cộng sản, luôn nói một đằng làm một nẻo ( nhiều chứng cứ lắm). Chính thứ ngụy thuyết dối trá (nặng mùi sắt máu) ấy đã đẻ ra những kẻ cầm quyền tàn bạo, tham lam, gian dối. Nhận rõ hệ lụy ấy nên đã có lần K. Marx thú nhận: “ Chỉ có sám hối thật tâm mới mong có cơ cứu rỗi”. Điều này rõ ràng chẳng mong được gì ở những người Cộng sản.

N.K.M.

 

Tác giả gửi BVN

This entry was posted in Lên Tiếng. Bookmark the permalink.