TOÀN CẢNH BỨC TRANH VỀ BÔ XIT TÂY NGUYÊN

Ban chủ nhiệm chương trình nghiên cứu khoa học KC08/11-15 Bộ KHCN

Khai thác tài nguyên trong nước và hy sinh môi trường là những điều các nước phát triển đều tránh. Chúng ta cũng đã phải trả giá trong chủ trương tự túc lương thực tại chỗ khi đánh đổi cả 1 ha rừng nguyên sinh lấy mấy tấn sắn, hay chủ trương chuyển “rừng nghèo” sang trồng cao su lập tức bị lạm dụng phá rừng già.

Những bài học đó làm cho dư luận rất quan ngại với dự án bauxite Tân Rai và Nhân Cơ mà ngay cả hiệu quả kinh tế cũng chưa tính hết lỗ hay lãi. Sự khác biệt trong cách nhìn nhận 3 mặt bền vững (kinh tế, xã hội, môi trường) của dự án này chỉ có thể giải quyết nếu các số liệu được công khai minh bạch và có phản biện độc lập.

Điều kiện để sản xuất nhôm

Các nhà nghiên cứu trên thế giới đã tổng kết kinh nghiệm việc quyết định có sản xuất nhôm (aluminum) hay không, cần đáp ứng thỏa đáng các điều kiện như có nguồn điện, nguồn nước dồi dào, nơi khai thác có vị trí và địa thế hoang vắng thuận lợi cho giải quyết thỏa đáng vấn đề bảo vệ môi trường (nước thải và bùn đỏ), có khả năng giảm xuống mức thấp nhất chi phí vận tải, có trữ lượng bauxite dồi dào với hàm lượng cho phép đạt 4/2/1 (4 tấn quặng làm ra 2 tấn alumina rồi từ đó ra 1 tấn nhôm, nếu không giá thành sẽ quá đắt) và có nguồn lao động rẻ.

Việt Nam là một nước đất chật người đông, tài nguyên khoáng sản đa dạng nhưng trữ lượng và khả năng về khoa học công nghệ còn hạn chế, nếu chỉ nghĩ đến việc “đào đất” đem bán không những hiệu quả về kinh tế thấp mà còn tác hại lớn đến môi trường. Tây Nguyên đang thiếu điện, thiếu nước, mật độ dân số ngày càng đông, cơ sở hạ tầng phục vụ cho khai thác bauxite nhất là về giao thông rất yếu kém. Hơn nữa, Tây Nguyên còn là vị trí rất quan trọng về an ninh quốc phòng, không phải ngẫu nhiên mà ngay từ năm 2008, nhiều nhà khoa học, kể cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhiều lần kiến nghị với Trung ương xem xét lại chủ trương khai thác bauxite ở Tây Nguyên.

Nhiều ý kiến của người dân cho rằng con đường đi lên của nước ta là tìm cách phát huy con người Việt Nam tự chủ, có ý chí nhẫn nại làm giầu bền vững, lâu dài trên từng thước vuông đất của Tổ quốc chúng ta bằng trí tuệ và lao động cần cù sáng tạo, đặc biệt ở Tây Nguyên là lựa chọn ưu tiên hướng phát triển xanh chứ không phải bằng cách đào bới khoáng sản đem đi bán bằng bất cứ giá nào.

Quá trình hình thành dự án bô xit Tân Rai và  Nhân Cơ

            Trong giai đoạn 2000-2004, Việt Nam đề nghị công ty Péchiney của Pháp (nay đã sát nhập vào Alcan của Canada) làm Pre-FS với công suất 300.000 tấn alumina/năm.  Péchiney áp dụng công nghệ hòa tách ở áp suất khí quyển và nhiệt độ 105-107o C với nồng độ kiềm cao 200-210 g/l (công nghệ này cũng là một dẫn suất từ công nghệ Bayer). Quá trình diễn ra khá lâu vì vốn đầu tư không có, và cũng có một số ý kiến nghi ngờ công nghệ này và hiệu quả (vì thế giới chỉ có hai nhà máy Fria ở Guinea và Nalco ở Ấn Độ áp dụng công nghệ này của Péchiney), công suất nhà máy quá nhỏ. Lúc đó, nếu có tiền chắc đã đầu tư dự án này rồi, còn Péchiney chỉ thiết kế và chuyển giao công nghệ, chứ họ không đầu tư và thu xếp vốn.

Thực ra trong năm 1988, UNIDO cũng đã lập luận chứng “Opportunity Study” để xây dựng nhà máy alumina có công suất 600 nghìn tấn/năm, nhưng không có đối tác, vốn đầu tư lớn đối với Việt Nam.

Khối SEV (thực chất là Liên Xô) cũng có ý định đầu tư vào mỏ “1/5”, nhưng lực bất tòng tâm nên không thực hiện được, đương nhiên khi đó, họ cũng có lời khuyên là nếu khai thác sẽ tác động đến môi trường. Trong 1996, Daewoo đã được giao làm nghiên cứu phát triển mỏ “1/5”, nhưng Daewoo không thực hiện được vì khủng hoảng kinh tế.

Từ 1998, BHP Billiton, Alcoa, Toshiba Chemical, Essar từ Ấn Độ, MCC, NFC và Chalco của Trung Quốc nhẩy vào. Nhưng Việt Nam lại giao cho Chalco miếng ngon nhất là mỏ “1/5”, còn BHP và Alcoa các vùng mỏ mới chưa được điều tra kỹ lưỡng như Quang Sơn, Đăk Song, Tuy Đức. Tuy nhiên, Việt Nam yêu cầu phía Việt Nam có cổ phần 60 % (lại còn yêu cầu đối tác giúp vay vốn này) trong liên doanh. Việt Nam vận hành nhà máy, xây dựng nhà máy alumina gần mỏ, phía đối tác nước ngoài lo bao tiêu sản phẩm và xây dựng đường sắt. Vì những yêu cầu này, các đối tác nước ngoài ngãng ra.

Từ 2004 bắt đầu nghĩ đến xây dựng nhà máy alumina có công suất lớn hơn 300 nghìn tấn, cụ thể là 650-700 nghìn tấn/ năm với tài nguyên bauxite Tân Rai, và giao cho  Tập đoàn than khoáng sản Việt Nam (TKV)  thực hiện từ 2006. Nhưng không có chủ trương liên doanh, yêu cầu công ty tham gia thầu làm thiết kế xây dựng và giúp giải quyết vốn. Đối với các nước phương Tây thì họ không có “văn hóa” kiểu này và khi họ biết có Trung Quốc tham gia thì họ cũng ngãng ra, chỉ còn lại Trung Quốc.  Ngay trong các công ty Trung Quốc cũng được chính phủ của họ hướng dẫn để cho Chalco thắng thầu. Trung Quốc trúng thầu thì hứa cung cấp vốn từ Eximbank và cung cấp luôn thiết bị, lao động “kỹ thuật” cũng là Trung Quốc!?.

Sau khi Chalco (Chalieco) trúng thầu rồi, lại giao luôn cho Chalieco làm luôn dự án Nhân Cơ với tài nguyên bauxite bóc ra ở đây để làm khu công nghiệp Nhân Cơ, với thành tích “tận dụng tài nguyên”. Tuy không tiếp tục làm “1/5” nữa, nhưng Trung Quốc vẫn dình dập bauxite Việt Nam vì nhiều, rất gần và còn mang ý nghĩa địa chính trị nữa. Vì thế, họ tìm mọi cách để tham gia dự án Tân Rai và Nhân Cơ.

Lúc đó, có những người tâm huyết, trình độ, biết nhìn xa trông rộng nêu ý kiến nếu đã làm thử nghiệm thì nên chọn đối tác phương Tây để học hỏi. Nếu đã cho Trung Quốc làm thì chỉ ở Tân Rai thôi và còn muốn làm thử nghiệm tiếp ở Nhân Cơ thì nên chọn đối tác khác. Nhưng  tiếc thay chẳng ai nghe. 

Về công nghệ

Ngày nay, Vinacomin và Bộ Công thương luôn nói họ áp dụng công nghệ Bayer thủy luyện hiện đại mà khắp thế giới đang sử dụng, không phải là của Trung Quốc. Nhưng họ sai cơ bản khi nói “công nghệ Bayer là của Châu Mỹ”.  Những người am hiểu công nghệ đều biết công nghệ Bayer được sáng tạo ra ở Châu Âu (phát triển ở Áo năm 1887) từ thế kỉ thứ XIX và cho đến nay, nếu có gì thay đổi cũng chỉ là cải tiến và kết hợp, còn nguyên lí thì vẫn như cũ. Chỉ có một công nghệ sản xuất alumine khác là phương pháp hỏa luyện “thiêu kết” vôi-soda caustic, không có hiệu quả bằng công nghệ Bayer truyền thống, và chỉ dùng khi trong quặng có hàm lượng silic cao thì không dùng công nghệ Bayer được.

Đúng là công nghệ Bayer cơ bản đã được sử dụng 100 năm rồi, nhưng động cơ đốt trong hai thì cũng có lịch sử hơn trăm năm, nhưng các thông số kỹ thuật của Mỹ, Anh, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ, Myanmar khác nhau về tiêu hao nhiên liệu, về khí thải ra môi trường, độ bền vv…

Trên nguyên lý của công nghệ Bayer, Trung Quốc đã xây dựng công nghệ này cho Việt Nam ở dự án bauxite Tây Nguyên. Xin lưu ý là Trung Quốc chỉ có quặng bauxite diaspore, nên Trung Quốc có thể nắm vững công nghệ Bayer cho quặng diaspore này (hòa tách ở nhiệt độ cao từ 240 đến 250o C). Còn quặng bauxite gibbsite như ở Việt Nam thì theo tôi hiểu đây là lần đầu tiên Trung Quốc phát triển và ứng dụng. Vì thế, đây cũng là dịp để Trung Quốc thử nghiệm công nghệ của họ trên đất nước ta. Đương nhiên, Trung Quốc cũng nhập khẩu quặng gibbsite từ Indonesia, nhưng nhà máy luyện ở Sơn Đông là do phương Tây thiết kế cho Trung Quốc.

Hiện tại quá trình lắng trong hòa tách chưa thật ổn, phải sử dụng nhiều chất trợ lắng vì goethite cao trong quặng. Đây là minh chứng không thể chối cãi về trình độ công nghệ hay kinh nghiệm của Trung Quốc còn rất hạn chế. Goethite là một khoáng chất chứa sắt FeO(OH) hay Fe2O3(H2O) có thể tồn tại tự nhiên trong quặng bauxite và đặc biệt là hình thành nhiều khi hòa tan bauxit bằng kiềm để sản xuất alumina. Khi hàm lượng goethite nhiều thì nảy sinh 2 khó khăn: 1) khó tách alumina ra khỏi các chất không hòa tan trong kiềm; 2) khó lắng bùn đỏ. Vì vậy để giải quyết 2 khó khăn này có một vài phương án, trong đó có thể có phương án phải sử dụng chất trợ lắng. Tôi không rõ Tân Rai đang dùng loại chất trợ lắng gì. Về nguyên tắc thì đây là chất hóa học, mà dùng nhiều các chất hóa học thì chắc chắn sẽ có tác động đến môi trường nếu không xử lý. Tuy nhiên, chất trợ lắng có nguồn gốc thiên nhiên (như tinh bột hoặc cellulose chẳng hạn) thì sẽ dễ phân hủy tự nhiên hơn, và do đó ít tác hại hơn, nhưng lại đòi hỏi có giá thành cao hơn (lại bài toán kinh tế!)!?

Nhà máy Tân Rai có hai tổ máy phát điện bằng than (2 x 15 MW)  cung cấp điện cho nhà máy và hơi nóng cho công đoạn hòa tách và một xưởng khí hóa than (để nung dung dịch hydrat nhôm ra thành  alumina). Ở Trung Quốc người ta đã cấm xây dựng nhà máy điện than có công suất dưới 50 MW, vậy tại sao lại đem công nghệ lạc hậu này sang Việt Nam?

Vinacomin nói đã thuê Tư vấn đánh giá hiệu quả kinh tế của Dự án Tân Rai và Nhân Cơ, đi đến kết luận là “hiệu quả” và thu hồi vốn trong 12-13 năm. Tư vấn đây là “tư vấn nội bộ”, tức là một công ty tư vấn khoáng sản của  Vinacomin có nghĩa là vừa đá bóng , vừa thổi còi.  Để khách quan và khoa học cần mời Tư vấn độc lập của phương Tây để họ đánh giá toàn bộ, giúp hoàn chỉnh lại công nghệ và thiết bị để đạt các thông số kỹ thuật (công suất), kể cả vận hành và quản lý.

 Không thể lập lờ thải ướt và thải khô

 

Nước trong hồ chứa bùn đỏ. Nguồn: http://news.zing.vn/Hinh-anh-ho-bun-do-moi-nhat-cua-Boxit-Tay-Nguyen-post305089.html.

Thực chất thải bùn đỏ ở Tân Rai hiện nay và Nhân Cơ sắp tới là thải ướt, mới đạt độ cứng 40%. Đã có lần nhà thầu Chalieco (Trung Quốc)  và cả Hội Mỏ Việt Nam báo cáo rằng họ áp dụng công nghệ “Drystacking”, nay Vinacomin nói là “thải khô tự nhiên” là ngụy biện.

Công nghệ thải hiện nay vẫn là ướt, chứa xút nên chiếm diện tích đất gấp 3 lần so với thải khô.  Mới chỉ  sau 2 năm vận hành, Vinacomin đã phải chuẩn bị làm khoang thứ 3. Đúng đây là thải ướt, bùn đỏ được bơm trực tiếp từ máy rửa cuối cùng ra bãi thải. Thải ướt chiếm nhiều diện tích. Nguyên tắc phân nhiều lô, lô này đầy thì chuyển sang lô khác. Lô tiếp theo bao giờ cũng phải sẵn sàng, để chứa bùn đỏ khi bãi trước đầy, chứa nước tràn từ bãi thải đã đầy, và đề phòng đê ngăn vỡ. Đáng tiếc là Hội Mỏ Việt Nam lại nói đây là thải khô nhiều lớp (dry-stacking) trong Kiến nghị gửi các vị lãnh đạo mới đây, nhiều tài liệu của Vinacomin cũng nói như  vậy!?.

Thải ướt, không chỉ làm gia tăng độ rủi ro khi chờ tuần hoàn mà còn làm gia tăng áp lực thủy tĩnh của hồ chứa.  Bộ Công thương và Vinacomin cần rút bài hoc kinh nghiệm của Hunggary là khi vỡ hồ bùn đỏ, họ đã cải tiến công nghệ thải bùn đỏ từ dạng ướt sang dạng khô có nghĩa là tỷ lệ rắn/lỏng > 60% vừa an toàn hơn, vừa chiếm ít diện tích khoang chứa chất thải.

Hiện nay, thế giới áp dụng nhiều công nghệ dry-stacking. Bùn đỏ được ép để khử nước nhiễm kiềm trong bùn đỏ và tạo ra bùn đỏ đặc, rồi thải trải nhiều lớp trên bề mặt nghiêng, để khử nước nhiễm kiềm bằng tháo khô và bùn đỏ sẽ khô dần dưới ánh nắng mặt trời, độ cứng có thể đạt tới 72 %. Áp dụng công nghệ này, tiết kiệm diện tích tới 2,5 lần so với thải ướt thông thường, nhưng chi phí lại cao hơn 30%. Ở Việt Nam áp dụng công nghệ này hơi khó vì mùa mưa kéo dài cả tháng.

Tốt nhất cho các dự án ở Tây Nguyên là ép bùn đỏ trước khi thải, hoặc sử dụng công nghệ Hyper-Baric (HI-BAR) để đạt độ cứng tới 75-77 %. Công nghệ Hi-Bar được coi là công nghệ xử lý bùn đỏ tốt nhất hiện nay. Sản phẩm của công nghệ này là bùn đỏ có thể được vận chuyển dễ dàng vì độ ẩm của bùn đỏ này chỉ  23 %, còn bùn đỏ có độ ẩm trên 28 % vận chuyển khó khăn vì nó mang tính giáp tuyến,  dưới tác động cơ học nó chuyển sang thể ướt xệt, có thể lưu giữ lâu dài và dễ chế biến cho tái sử dụng.

 

Độ an toàn của hồ bùn đỏ

Nhìn bằng mắt thường hồ bùn đỏ được xây dựng khá vững trãi nhưng quan ngại nhất đối với hồ bùn đỏ ở Tân Rai và Nhân Cơ là rò rỉ kiềm vào nước ngầm và nước mưa tràn.  Màng (tấm) chống thấm được sử dụng rộng rãi để lót đáy và thành vành. Cho tới nay chủ yếu màng địa kỹ thuật được dùng là màng lót chống thấm kênh dẫn nước, lót ao hồ. Một trong những áp dụng nhiều nhất hiện nay là để chống thấm các bãi rác độc hại, rác thải của thành phố, rác thải công nghiệp, nước rửa rác thải. Từ cuối thế kỷ qua người ta cũng sử dụng để chống thấm chất thải phóng xạ. Cũng có chuyên gia khuyên không nên dùng màng này đối với môi trường kiềm hoặc chỉ sử dụng trong thời gian ngắn. Các kết quả nghiên cứu cho thấy màng này chỉ thích hợp chống thấm có hóa chất trong thời gian ngắn-chỉ trong vòng 50 đến 100 năm, kinh nghiệm chống thấm bãi thải khoáng sản chưa có nhiều.

Nếu thời gian tương tác của môi trường kiềm với màng địa kỹ thuật kéo dài, thì màng này có thể bị phá hủy do bị ăn mòn hóa học, sức chịu kéo của màng chỉ còn 60 % sau một năm tương tác với NaOH. Màng HDPE có độ đề kháng hóa chất rất tốt, nhưng tính uốn lượn kém và bị nứt nếu chịu áp lực môi trường và nhiệt. Tân Rai sử dụng  loại màng này.

Bãi thải bùn đỏ ở Tân Rai và Nhân Cơ có lắp đặt hệ thống ống bê tông, có các lỗ trên thành ống. Nguyên tắc cơ bản: Các ống này nằm trên các lớp sét (dày tới 600 mm) chống thấm ở đáy và lớp cát dày, rồi phủ cát lên. Nước thấm đáy nhiễm kiềm chảy qua các lỗ ống qua trọng lực để tới chỗ thu gom, rồi được bơm trở lại nhà máy để giữ cho áp lực thủy tĩnh lên lớp chống thấm đáy, như thế giảm được tiềm năng thấm vào mạch nước ngầm. Vấn đề ở đây là sau thời gian các lỗ này bị bịt kín lại, phải xử lý thông và kiểm tra nguồn nước ở thượng nguồn, hạ nguồn gần bãi thải xem hoạt động có đạt yêu cầu không?

Các tấm lót đáy hồ dễ bị thủng và thẩm thấu qua đất vào nước ngầm. Điều tra gần đây cho thấy qua nhiều thập kỷ, kiềm trong pha lỏng của bùn đỏ đã phản ứng với đất sét, sodium-aluminium-hydrosilicate và zeolite trong một cơ chế phản ứng phức hợp. Phản ứng này tương tự như phản ứng của khoáng sản sét trong dung dịch Bayer, nhưng chậm hơn rất nhiều. Thay đổi này làm tăng tức thì tính thấm nước của lớp đáy bằng đất sét, tạo ra sự rủi ro là làm ô nhiễm hệ thống nước ngầm sau nhiều thập kỷ đã xẩy ra ở một nhà máy của Alcoa ở Tây Australia. 

Hồ chứa quặng  đuôi Tân Rai đã từng bị vỡ

Người dân không quên sự cố hồ chứa quặng đuôi bauxite của Tân Rai đã bị vỡ ngày 8/10/2014. Nước tuần hoàn mới sử dụng được 20%, trong khi nước để rửa quặng rất lớn, cần diện tích lớn để chứa quặng đuôi này.

Các sản phẩm sau đây (tuy không chứa kiềm) từ nhà máy tuyển được thải ra hồ. Quặng có kích thước nhỏ hơn 1 mm, bùn tràn phân cấp và nước từ sang rung khử nước. Nước thải này là nước huyền phù, nếu tràn ra ao hồ thì cá, vi sinh vật chết, nếu ra ruộng thì rau cỏ cũng chết. Nếu mà vỡ hồ bùn đỏ thì tác hại còn khủng khiếp hơn rất nhiều so với hồ chứa quặng. 

Về tách sắt ra khỏi bùn đỏ

Các nhà khoa học đã làm nhiều, trong đó có thiêu kết như Viện Hóa học Việt Nam đang làm, nhưng họ đều kết luận: Hiện tại chưa thể triển khai qui mô công nghiệp, trong đó cần năng lượng nhiều cho thiêu kết trong lúc thế giới thiếu năng lượng. Các nhà khoa học còn kết luận là việc tách kim loại có hiệu quả nhất vẫn là từ khai thác quặng tự nhiên để luyện.

Trên thế giới mới tái sử dụng khoảng 5 % lượng bùn đỏ, chủ yếu để làm vật liệu xây dựng. Các nước đã nghiên cứu thành công tái sử dụng bùn đỏ vào nhiều mục đích rồi, nhưng không thể triển khai ở qui mô công nghiệp vì giá thành quá cao. Ngay đến làm gạch, vật liệu làm đường cũng không dễ tiêu thụ, vì người dân ám ảnh đây là chất thải có kiềm, có phóng xạ. Vì thế EU ban hành qui định sử dụng bùn đỏ làm vật liệu xây dựng rất nghiêm ngặt. Xin đừng ảo tưởng việc thương mại hóa bùn đỏ thành  sắt ở Tây Nguyên.  

Hiệu quả của dự  án

Mặc dù lâu nay, nhiều nhà khoa học yêu cầu nhưng Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) vẫn chưa công bố công khai và minh bạch về giá thành  để có đủ cơ sở phản biện khoa học. Những người am hiểu, đều ngạc nhiên khi Vinacomin tuyên bố nhà máy Tân Rai và Nhân Cơ vẫn có lãi và sẽ thu hồi vốn.!?.  Giá bình quân cả năm 2014 đạt 326,5 USD/tấn cao hơn so với tính toán của dự án trước đây là là 325 USD/tấn. Đây chỉ là nhất thời bởi vì sản xuất alumina của Trung Quốc giảm do nguồn bauxite diaspore trong nước khan hiếm, nhập từ Việt nam còn rẻ hơn là từ Châu Mỹ latinh.

Tra cứu số liệu trên tạp chí khoa học Mining Bulletin về bauxite, giá thế giới trong tháng 2 năm 2015 như sau: Bauxite của Úc (AL 48-50 %, Si 6-7%), giá trung bình: $USD 60-61/tấn.  Bauxite của Ấn Độ (Al 48-50%, Si 6-7 %), $US 61-62/tấn, bauxite của Indonesia (Al 48-50 %, Si 6-7 %), $US 60-61/tấn (CIFChina). Đầu vào cho sản xuất alumina ở Việt Nam là bauxite tại chỗ, không rõ giá cả thế nào?

Về giá thành, nếu minh bạch thì Vinacomin phải công bố cả lượng nhập khẩu lớn về xút và chất trợ lắng. Than từ Quảng Ninh cũng cần nhiều cho phát điện và khí hóa than (cứ 01 tấn alumina cần khoảng 01 tấn than). Như vậy chi phí vận tải (biển, ô tô) rất lớn. Sản phẩm alumina cũng phải được vận chuyển bằng ô tô ra cảng để xuất khẩu.

Theo tôi biết vì trên thực tế thì dự án chưa được quyết toán vốn đầu tư chưa bàn giao nên chưa có khấu hao. Trong giá thành 2013 thì chắc chắn không có khấu hao (khoảng 350 US/tấn) còn giá thành 2014 thì chưa công bố kiểm toán nên chưa biết khấu hao là bao nhiêu?.  Nếu có thì phải 50-75 triệu US/năm và nếu bổ theo sản lượng thì phải khoảng 75-100US/tấn nữa (tuỳ thuộc vào công suất thực tế hàng năm). Đấy là minh chứng về dự án bô xit Tây Nguyên lỗ to là phải (chưa kể những ưu đãi khác mà ngân sách phải gánh chịu)  vv…. 

“Khoác áo”  sở hữu toàn dân 

Về bản chất vấn đề tài nguyên khoáng sản là của toàn dân, vậy xuất thì ta thu về được cái gì cho dân? Vinacomin lập luận mặt hàng ô xít nhôm (alumina) có mã số hàng hóa (mã HS) là 2818.20.00, với mức thuế suất (thuế xuất khẩu) là 0%, mức thuế này tương đương với mức thuế 0% của các nước xuất khẩu chính alumina như: Brazil, Ấn độ, Australia vv…

So sánh  như thế tưởng rằng khôn nhưng “không ngoan”  bởi vì các công ty ở các nước đó để có quyền khai thác bauxite họ phải tham gia cạnh tranh đấu thầu  hay nói cách khác phải mua tài nguyên của nhà nước qua phí đấu thầu. Còn ở Việt Nam, mỏ bauxite Tây Nguyên hầu như cho không Vinacomin để khai thác. Đừng quên rằng Alumina vẫn là quặng đã chế biến (nguyên liệu đầu vào cho ngành khác, có nghĩa là bán thành phẩm). Vấn đề gốc rễ ở đây là sở hữu toàn dân biến thành sở hữu của nhóm lợi ích.     

Lời kết

            Thông tin về hiệu quả dự án bauxite trên một số tờ báo vừa qua chỉ có tính chất PR khỏa lấp cho sai lầm đã chót cưỡi trên lưng cọp! Không ai biết sự thật bằng những người trong cuộc.  Ông Nguyễn Chân cựu Bộ trưởng Bộ Mỏ và Than có lần chất vấn một vị lãnh đạo của Tập đoàn Than và khoáng sản Việt Nam về dự án bô xít Tây Nguyên  thì nhận được câu trả lời rất thật : ”Em không làm thì người khác cũng làm vì đã có chủ trương vv…”. Vâng, người dân hiểu ngày nay trên công luận nếu có các tuyên bố này khác về hiệu quả bô xít Tây Nguyên cũng chỉ để “rửa mặt” vì trong thâm tâm, không hẳn họ đã nghĩ như thế!

Điều quan trọng ở đây là các báo cáo của Vinacomin chưa cho biết nhiều số liệu của đầu vào, nhiều thông số kỹ thuật của vận hành nhà máy không đạt như thiết kế (gây lãng phí tài nguyên, nước và năng lượng), đã có những hỏng hóc đáng ngại phải có đầu tư bổ sung để khắc phục, còn nhiều khoản chi phí bỏ ngoài giá thành, và vấn đề giao thông vẫn hoàn toàn bế tắc vv…

Sắt cho sản xuất thép từ thiêu kết bùn đỏ là chuyện rất viển vông vì chỉ tồn tại được trong phòng thí nghiệm, quá đắt trong sản xuất ở quy mô kinh tế, thế giới đã bỏ chuyện này từ lâu rồi. Hơn nữa sản lượng thép trên thế giới đang dư thừa lớn và tình hình này còn kéo dài một vài thập kỷ nữa, chẳng ai ngu gì đi làm như thế! Nước ta đang khan hiếm không gian sinh sống (vì mật độ dân số rất cao, vào loại nhất Châu Á, hơn cả Trung Quốc) và rất thiếu năng lượng, sắp tới càng khan hiếm hơn nữa.

Nhà nước đã sử dụng vốn vay khoảng 1,5 tỷ đô la, chỉ tính riêng Vinacomin đầu tư 2 dự án Tân Rai và Nhân Cơ là hơn 7000 tỷ đồng (lấy vốn từ than), mỗi năm lỗ khoảng 1000 tỷ đồng. Cần phải minh bạch các con số tính toán giá thành sản xuất và giá bán, và những người có trách nhiệm biết lắng nghe phản biện xã hội để tìm ra lối thoát hợp lý nhất dù phải trả giá đắt chứ không phải tìm cách an dân bằng loại thuốc an thần! Chúng ta bị “chẩy máu trong” nhiều quá, và thật đáng buồn, các thầy thuốc lại bị ngăn cản không được cấp cứu con bệnh là người thân thương của mình.

T.V.T

Tác giả gửi BVN

 

This entry was posted in Bô-xít. Bookmark the permalink.