Hồi ký là một thể loại hiện rất được quan tâm, có gì đâu, nó giúp người ta một mảng tư liệu sống mà tâm lý cộng đồng đang rất cần để giải đáp cho mình những câu hỏi nan giải, vì tồn đọng đã quá lâu mà không có cách gì làm sáng tỏ. Nhưng hồi ký thực ra cũng chỉ là cách lục lại trí nhớ chứ không phải là nhật ký chép đích xác, tỉ mỉ chuyện đương thời ngay lúc nó vừa xảy ra. Vì thế chuyện đôi khi có chỗ tréo ngoe giữa hồi ký này và hồi ký kia là điều không lấy gì làm lạ. Chúng tôi quan niệm cứ tập hợp tất cả mọi sự nhớ sai biệt lại rồi thông qua sàng lọc bằng lý trí tỉnh táo của con người ngày nay thì thế nào cũng tìm thấy một thông số không xa với sự thực. Ông Nguyễn Ngọc Lanh trong bản hồi ký của mình lại lý giải bài “Địa chủ ác ghê” của CB theo ấn tượng ngay khi ông đọc bài ấy trong không khí tôn sùng lãnh tụ vẫn đang vây bủa lấy đầu óc của gần như cả một cộng đồng, vì thế cái sai về phía chủ quan người viết, cái dụng ý bôi bác người phụ nữ đã cưu mang cách mạng trong lúc khó khăn, nếu có, cũng tự nhiên được giải thích thành cái có lý. Trên phương diện này bài viết của tác giả càng giúp ta hình dung rõ hơn diện mạo tinh thần của một thời đoạn có một không hai trong lịch sử mà ngày nay dù muốn cũng rất khó phục dựng. Trân trọng gửi đến bạn đọc để cùng chiêm nghiệm và trao đổi.
Bauxite Việt Nam
Tin tức “đấu tố” từ Thái Nguyên lan về
– Năm 1953 tôi học cấp 3 ở tỉnh Phú Thọ, toàn cấp chỉ có khoảng 150-200 học sinh, trong đó, số “tản cư” (gốc Hà Nội, Vĩnh Yên) nhiều hơn số tại chỗ. Vùng kháng chiến (từ Hà Tĩnh trở ra) vẻn vẹn chỉ có 6 trường cấp 3, do vậy học sinh rất được nể trọng. Chúng tôi đã lớn tuổi (18-22), vì quy định 7 tuổi mới đi học, qua bậc tiểu học thời thuộc Pháp đã mất 6 năm; sau đó, do chiến tranh, việc học của mỗi chúng tôi có thể gián đoạn vài ba năm. Các thầy đều được đào tạo bài bản từ trước 1945, khi giảng bài còn chêm vào những câu tiếng Pháp, nhưng chúng tôi vẫn hiểu. Tóm lại, chúng tôi đã ở tuổi trưởng thành, đủ hiểu biết để quan tâm tới xã hội.
– Giữa năm đó, tin đấu tố và xử bắn “mụ địa chủ gian ác, phản động” Thị Năm từ Thái Nguyên lan về Phú Thọ. Nghe nói, con “quỷ cái” này ác “trần đời có một”, nhưng ác mức nào thì toàn tin đồn. Phải tới 2 tháng sau, mới có bài báo của CB liệt kê đủ tội của Thị Năm. Cái tên bài báo gây ấn tượng đến nay tôi chưa quên: Địa chủ ác ghê. Ngay hồi đó, chúng tôi đã biết CB chính là cụ Hồ. Chúng tôi thấy “tử hình vẫn còn quá nhẹ” – dù đó là đàn bà. Câu nói truyền khẩu được mọi người thán phục, nhập tâm, vì do đích thân cố vấn Trung Quốc dạy: Hổ đực, hổ cái đều ăn thịt người. Thời nay, tôi tin chắc không ai tưởng tượng nổi uy tín và quyền lực của cố vấn Trung Quốc. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn nhận ra: Cái tên bài báo hơi “lạ”. Lạ ở cái chữ “ghê”. Nó chẳng hề thể hiện sự căm ghét, phẫn nộ gì sất… mà cứ như bọn tôi đùa nhau: Em ghét anh ghê, tao tức nó ghê; hoặc sướng ghê, tài ghê, buồn ghê… Rất khó dịch “ghê” sang ngôn ngữ Tây, Tàu.
Chính sách trên giấy trắng, mực đen
Sau đợt đấu tố 6 tháng, tức là tới đầu năm 1954, chính sách CCRĐ mới được công bố trên tờ báo, mà chúng tôi truyền tay nhau tới nhàu nát. Để tuyên truyền cho “chất trí tuệ” trong chính sách, cán bộ tỉnh ủy khẳng định rằng các đồng chí cố vấn Trung Quốc đã góp ý sát sao, sau đó VN còn gửi cho các đảng đàn anh góp ý lần cuối.
Tôi và một số bạn tìm hiểu “từng chữ, từng ý” ghi trong chính sách, vì gia đình mình có ruộng. Được chúng tôi đặc biệt quan tâm là các tiêu chuẩn để quy một người là địa chủ – do một cán bộ tỉnh ủy nói cụ thể. Vài ví dụ. Được coi là địa chủ thường, nếu: 1- diện tích ruộng/đầu người chỉ gấp 4-6 lần mức bình quân chung; 2- phần lớn ruộng phát canh, thu tô; và 3- đó là nguồn sống chính. Chính sách đối xử là: bị trưng mua hoặc trưng thu một phần ruộng đất; phần còn lại phải tự cày cấy. Nếu bản thân địa chủ hoặc con cái tham gia kháng chiến, hoạt động cách mạng… được gọi là yêu nước. Nếu hống hách, đánh nông dân, bị coi là cường hào. Nếu gây án mạng, bị gọi là gian ác. Nếu cộng tác với giặc Pháp, bị coi là phản động… Thị Năm đủ các tiêu chuẩn để bị quy kết là đại địa chủ (có đồn điền) gian ác, phản động… Chúng tôi thấy, tỉnh Phú Thọ chỉ có vài cái đồn điền lớn (mỗi cái chỉ vài trăm hecta), nhưng chẳng có ông chủ nào gian ác, phản động. Ông Đào Đình Quang, chủ đồn điền Phú Hộ là phó chủ tịch Mặt Trận Liên Việt tỉnh; có con là sinh viên quân y. Ông sẵn sàng đón nhận khi biết trường Y từ Tuyên Quang muốn về đóng ở đồn điền mình. Một vị khác là Trịnh Xuân Nghĩa (đồn điền Phú Lộc) đã thu dung “dân tứ tán”, mở trường dạy con em họ. Thời ấy, cả huyện Phù Ninh chỉ có hai trường tiểu học.
Khi tôi về làng, nhiều người thấy tôi nói chính sách vanh vách, liền tới hỏi han. Tôi đưa “giấy trắng mực đen” ra đối chiếu… khiến ai cũng yên tâm. Những người nhiều ruộng sẵn sàng “hiến” hết, chỉ giữ lại mức bình quân chung. Hầu như chẳng có ai đạt mức “cường hào”, càng chẳng có ai “gian ác”. Tất cả đạt tiêu chuẩn “yêu nước”.
Chính sách một đường, thực hiện một nẻo
Tôi tìm hiểu kỹ chính sách CCRĐ vì liên quan tới mẹ tôi. Mẹ tôi suốt đời buôn bán nhỏ, nhưng từ năm 1945 phải quản lý số ruộng đất do mẹ chồng (mất đi) để lại. Đây là ruộng của tổ tiên, dành để thờ cúng (giao cho con trưởng) – nghĩa là không được bán. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, mẹ tôi đưa các con theo cơ quan cha tôi, sống bằng lương (của cha), thu nhập tiểu thương (của mẹ) và tự nuôi gà, trồng rau (của chúng tôi). Tôi rất yên tâm: Mẹ tôi còn quá xa mới đủ tiêu chuẩn địa chủ “thường”.
Nhưng chính sách một đường, thực hiện một nẻo. Những người ở quê từng yên tâm sau khi nghe tôi giải thích về chính sách, chỉ sau ít lâu đều nhất loạt bị coi là địa chủ, hầu hết là “cường hào”, đa số là “gian ác, phản động”. Đủ tiêu chuẩn để bị tịch thu gia sản và đi tù. Không ai được giải trình bất cứ điều gì với “đội cải cách”, mà bị trói, bị lôi ra trường đấu. Nông dân “tố” họ tội gì, họ bị coi là có tội đó, kể cả hai người bị tử hình ngay sau khi bị đấu tố. Họ vừa quỳ, vừa lí nhí biện bạch gì đó, nhưng lời họ bị át đi vì tiếng hô “long trời lở đất” của hàng trăm (hoặc ngàn) người được “đội cải cách” tụ tập thành bầy đàn. Tất thảy, đúng như dự đoán của cha tôi. Chả là, cha tôi may mắn có mặt ở cuộc đấu tố Thị Năm trong đợt ông được cử đi công tác Thái Nguyên. Tới nơi, lẽ ra ông làm nhiệm vụ giáo dục, nhưng lại bị “huy động” giúp việc Ủy Ban CCRĐ. Đầu tiên là được tháp tùng các vị trong ủy ban này khi họ tới quan sát thực tiễn buổi đấu tố.
Con ơi! Cụ Hồ cũng không cứu được nhà ta đâu
Cha tôi nói, tôi có thể bị đuổi học, vì mẹ tôi sẽ bị quy là địa chủ, không thể thoát được. Cần can đảm chuẩn bị cho tình huống xấu nhất.
Tôi liền đưa “giấy trắng mực đen” ra, nói là không thể có chuyện đó. Mặt khác, cha có mọi điều kiện gửi đơn lên tận ông Hoàng Quốc Việt và UB CCRĐ trình bày sự thật. Sợ gì? Cha nói: Sợ, là sợ cái dòng chữ “phóng tay phát động quần chúng” mà cố vấn TQ đòi ta đưa vào văn bản. Đã được “phóng tay” thì đám âm binh sẽ lộng hành, mà ngay ông phù thủy (tạo ra chúng) cũng không thể điều khiển chúng được nữa. Sau này, khi dự 3 cuộc đấu tố, tôi mới thấy thế nào là âm binh được phù thủy thả rông.
Tôi bảo cha: Nghe nói cụ Hồ có dự đấu tố? Hay là mình thử viết đơn gửi cụ Hồ?
Cha bảo, cha cũng nghe nói cụ Hồ đích thân chứng kiến tận mắt cuộc đấu tố (cha tôi không dùng “dự”; mà dùng “chứng kiến”; và theo cha, việc các vị lãnh đạo phải quan sát, rút kinh nghiệm cuộc đấu tố là việc đương nhiên). Nếu chứng kiến, hẳn là ông cụ thấy cách kết tội rất không ổn. Nhưng nay, chính cụ cũng phải tự giữ thân rất thận trọng.
Khi còn ở Thái Nguyên, cha tôi biết UB CCRĐ đã đưa đủ tài liệu cho cụ, đề nghị cụ viết bài lên án Nguyễn Thị Năm, cụ chần chừ khá lâu. Cha bảo: Con đã học cấp 3, hãy đọc kỹ văn phong bài Địa chủ ác ghê, để thấy sự miễn cưỡng. Miễn cưỡng ngay từ cái đầu bài. Biết rằng bài sẽ được dịch sang Trung văn, cái chữ “ác ghê” tiếng Việt (rất đùa) khi sang tiếng Trung lại thành “địa chủ cực ác” – rất nghiêm chỉnh. Cuối bài, còn có 2 câu đối, hẳn là không phải để cho bần cố nông thưởng thức, mà để người Tàu khen.
Đố ai tìm được bài nào của CB có văn phong tương tự.
Cuối cùng, đúng như cha tôi kết luận: Con ơi! Cụ Hồ cũng không cứu được nhà ta đâu.
Chính tôi được biết
– Tôi không nói về cuộc đấu tố đầu tiên tôi được dự (ông Nguyễn Hán Công; tử hình); trong đó bọn học sinh cấp 3 chúng tôi có nhiệm vụ duy nhất là gào thật to: Đả đảo địa chủ ngoan cố. Tôi cũng không nói về cuộc đấu cuối cùng ở ngoại thành Hà Nội, tôi có mặt trong đoàn sinh viên Y. Cũng tử hình.
– Mẹ tôi được sửa sai sớm, nhưng tài sản mất hết, từ “chổi cùn” đến “rế rách”. Nay, tôi xin chọn để nói về 2 địa chủ liên quan tới gia đình tôi: một tử hình, một bị bỏ đói tới chết.
1) Ông Nguyễn Viết Đạo, 43 tuổi, trong “hội đồng tuế” với cha tôi. Ông là chủ tịch xã, đảng viên, từng nuôi bộ đội, cán bộ và ủng hộ kháng chiến “không tiếc gì tài sản”; con trai ông là bộ đội. Khi “đội cải cách” về xã, lập tức chính quyền thành vô hiệu. Đội bắt ông, trói, giam… ông vẫn bảo vợ con: Đây là sự nhầm lẫn, vì ông đã đọc chính sách rất kỹ. Khi bị đấu tố, ông vẫn giữ được bình tĩnh, chững chạc, khiến “đội” rất tức tối. Thời điểm này, do cố vấn TQ phổ biến kinh nghiệm, nên đã có lệnh “chỉ được bắn địa chủ từ sau lưng” (để họ khỏi hô: Hồ chủ tịch muôn năm; đảng Lao Động VN muôn năm”). Ông bị bắn đúng như vậy ngay sau khi bị giải ra khỏi trường đấu. Ông chỉ kịp quay lại, trừng mắt nhìn tên đao phủ, rồi đổ vật xuống. Tên này, sau hóa điên. Một địa chủ khác (cùng xã) cũng bị bắn.
2) Cụ Nguyễn Hoán, 80 tuổi, lấy chị ruột của ông nội tôi. Cụ giỏi chữ Hán, biết quốc ngữ; trước 1945 là Hội trưởng Hội Tư Văn của xã. Cụ có nhiều thơ, câu đối, văn mừng cách mạng tháng 8, ca ngợi cụ Hồ. Năm 1946 khi nghe tin cụ Hồ làm chủ tịch, cụ Hải Thần làm phó chủ tịch nước, cụ Hoán có câu đối ca ngợi sự đoàn kết, hợp tác:
Hồ – Hải giao thông: Thiên hạ trị
Minh – Thần hợp tác: Quốc dân an
Ngay từ khi đáng CS bắt đầu đề cao đấu tranh giai cấp, cụ tự thấy bất an, đã đưa ra 4 chữ triết lý cho riêng mình: Nhẫn Nại Xử Thế. Cụ vẫn không yên thân. Con cháu bị quy là địa chủ (sau được sửa sai) nhưng khi đó họ không dám chăm sóc khi cụ đói khát, hàng xóm cũng không dám gần… Rốt cuộc, cụ nằm chết trên giường tới khi “bốc mùi” mới được “đội” cho phép đem đi.
N.N.L.
Tác giả gửi BVN